Thứ Tư, 8 tháng 3, 2017



NHỮNG CƠ SỞ KINH TẾ - XÃ HỘI TẠO NÊN                                     KẾT CẤU CHẶT  CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG.  LIÊN HỆ VỚI LÀNG XÃ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
                                                                                      LÝ KIM CƯƠNG
                                                                      LỚP: CAO HỌC LSVN
 KHÓA: 2010-2012 (ĐỢT 1) 
(ĐH KHXH&NV Tp.HCM)  


----------------------
MỞ ĐẦU

Từ hàng trăm năm qua, làng xã Việt Nam truyền thống đã trở thành đối tượng khoa học của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới, bởi làng xã Việt Nam có những đặc trưng riêng, không giống với tổ chức làng xã của nhiều nước trên thế giới. Ngay cả so với với các nước trong khu vực Đông Nam Á, cùng là những nền kinh tế tiểu nông, cùng là những nước trồng lúa nước và có sự giao lưu văn hóa với nước ta từ rất lâu đời, làng Việt truyền thống vẫn có nhiều đặc điểm khác biệt. Hơn nữa, làng xã Việt Nam truyền thống là biểu hiện tập trung của văn hóa Việt Nam, chứa đựng sức mạnh tiềm tàng của dân tộc Việt Nam trong suốt tiến trình tồn tại và phát triển. 
Làng xã Việt Nam là một thực thể phong phú và phức tạp với những quan hệ kinh tế, xã hội đan xen, chồng chéo, chuyển hóa nhau tạo nên những giá trị truyền thống vừa có những yếu tố tích cực vừa chứa đựng những hạn chế nhất định…Vì vậy, nghiên cứu thấu đáo làng xã Việt Nam truyền thống không chỉ giúp nhận thức đầy đủ xã hội và văn hóa Việt Nam trong lịch sử, mà còn giúp khai thác các yếu tố tích cực của làng xã truyền thống trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội để kế thừa và vận dụng phù hợp trong thời kỳ mới hiện nay.
Nghiên cứu đề tài “Những cơ sở kinh tế- xã hội tạo nên kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống. Liên hệ với làng xã Việt Nam hiện đại” nhằm giúp nâng cao hiểu biết về làng xã cổ truyền của nước ta, hiểu được những cơ sở kinh tế, xã hội tạo nên đặc điểm nổi bật trong cấu trúc xã hội của làng Việt, đó là “kết cấu chặt”. Nắm được những vấn đề trên là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng phục vụ cho chương trình xây dựng nông thôn mới, góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay.



NỘI DUNG

1.KHÁI NIỆM “LÀNG”, “XÔ
Làng là một từ “nôm”, một khái niệm trong ngôn ngữ đời sống, dùng để chỉ những đơn vị cư trú truyền thống của người Việt, trong đó, các gia đình sống quây quần trên một  địa vực riêng, có kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội, cơ cấu tổ chức và luật lệ, phong tục, tập quán riêng. Làng là một tổ chức chặt chẽ, một đơn vị hoàn chỉnh về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tâm lý, tín ngưỡng của người Việt. Theo nhà nghiên cứu Trần Từ, làng là một tế bào sống của xã hội Việt thời cổ, là sản phẩm tự nhiên của quá trình định cư và cộng cư của người Việt trồng trọt [1].
Làng được hình thành từ rất lâu đời trong lịch sử dân tộc ta. Từ thời Hùng Vương dựng nước đã xuất hiện những xóm làng định cư trên những khu vực cư trú rộng lớn vùng đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ. Mỗi làng thường có một dòng họ chính và một số dòng họ khác cùng sinh sống. Đây là hình thức “công xã nông thôn kiểu Á Châu” và là tiền đề cho sự hình thành quốc gia, nhà nước. Lúc bấy giờ, các công xã nông thôn này được người Việt gọi là “kẻ” hoặc “chiềng”, “chạ”; về sau được gọi là làng[2].
Xã là từ Hán Việt, dùng để chỉ “đơn vị hành chính cơ sở ở nông thôn, bao gồm một số thôn”[3]. Thời kỳ họ Khúc xây dựng nền độc lập tự chủ, xã được thiết lập thay cho các công xã nông thôn trước đó, mà công xã nông thôn chính là làng. Như vậy, xã được hình thành muộn hơn làng và là sản phẩm của nhu cầu quản lý xã hội của bộ máy chính quyền phong kiến trung ương. Trong lịch sử, ở các thời kỳ khác nhau, quy mô xã thường có nhiều biến đổi nhằm phục vụ cho mục đích quản lý của chính quyền. Ví dụ: thời kỳ Bắc thuộc, để chi phối làng Việt, thực hiện âm mưu đồng hóa dân tộc ta, các thế lực phong kiến phương Bắc thiết lập xã với phạm vi nhỏ hơn làng (xã đặt dưới hương). Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, phạm vi xã cũng có nhiều biến đổi: có những xã vừa và nhỏ, loại xã “nhất xã nhất thôn”; và có những xã lớn, gồm nhiều thôn hợp lại (loại xã “nhất xã nhị, tam thôn)... Danh từ “xã” thường được dùng trong văn bản hành chính, trong sổ sách; còn trong nhân dân, người dân quen gọi là làng. Như vậy, làng vốn là một đơn vị cư trú, về sau chuyển thành đơn vị hành chánh cơ sở là xã. Trong thời kỳ Pháp thuộc, ở nhiều nơi, một xã cũng là một làng nên người dân hay gọi chung là làng xã. Ở Nam bộ còn có khái niệm “ấp”. Ấp là làng, xóm nhỏ, được lập nên ở nơi mới khai khẩn, hoặc thôn ở biệt lập[4]. Tại đây, khi cư dân còn ít, xã là làng, là xóm ấp; nhưng khi dân cư và địa vực hành chính mở rộng, một xã thường gồm nhiều ấp và trong một ấp có thể gồm nhiều xóm.
Làng xã còn là đơn vị kinh tế – xã hội phổ biến của nông thôn Việt Nam, một thực thể phong phú và phức tạp, vừa chứa đựng những tinh hoa dân tộc, vừa bao hàm những hạn chế, tàn dư dai dẳng của xã hội cũ – xã hội tiểu nông. Nhận thức rõ đặc điểm kết cấu của làng xã cổ truyền Việt Nam có thể giúp ta kế thừa được những giá trị tích cực, những tinh hoa đặc sắc của dân tộc; đồng thời, khắc phục những yếu tố tiêu cực có thể cản trở bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay.


2. NHỮNG CƠ SỞ KINH TẾ - XÃ HỘI TẠO NÊN KẾT CẤU CHẶT CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
2.1. Về “kết cấu chặt” của làng xã Việt Nam truyền thống
Khi nghiên cứu kết cấu xã hội của làng xã ở các nước Đông Nam Á, nhiều nhà dân tộc học gọi làng của Thái Lan là “cấu trúc lỏng”, kể cả các làng của Lào, Cam - pu - chia cũng có mối quan hệ giữa các gia đình tiểu nông không chặt lắm và quan hệ huyết thống cũng lỏng lẻo chứ không “chặt” như làng xã Việt Nam[5]. “Kết cấu chặt” là đặc điểm nổi bật của cấu trúc xã hội làng xã Việt Nam truyền thống. Đặc điểm này thể hiện ở mối quan hệ gắn bó, liên kết chặt chẽ giữa các gia đình tiểu nông trong làng xã, tạo nên tính cộng đồng làng xã rất cao. Kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống được hình thành từ những cơ sở kinh tế, xã hội mang tính đặc thù của nền sản xuất tiểu nông Việt Nam diễn ra trong những điều kiện tự nhiên, chính trị cũng rất đặc thù của đất nước.
2.2. Những cơ sở kinh tế- xã hội tạo nên kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống  
2.2.1.Nền kinh tế nông nghiệp lúa nước trong điều kiện tự nhiên đặc thù của Việt Nam là nhân tố quan trọng tạo nên tính cố kết cộng đồng làng chặt chẽ.
Hoạt động kinh tế cơ bản của làng xã Việt Nam từ xưa đến thế kỷ XIX - XX là hoạt động kinh tế tiểu nông, với nghề sản xuất chính là trồng lúa nước. Canh tác lúa nước với những mảnh ruộng nhỏ bé, công cụ lao động thô sơ như ở Việt Nam, nhất là ở Miền Bắc Việt Nam lẽ ra thích hợp với kiểu làm ăn cá thể, không cần liên kết rộng lớn nhiều gia đình hay toàn làng. Vì vậy, liên kết giữa các gia đình trong làng xã tiểu nông của nhiều nơi trên thế giới thường lỏng lẻo. Tuy nhiên, ở Việt Nam, do những đặc điểm riêng về tự nhiên, kinh tế, xã hội đã tạo nên những liên kết xã hội chặt chẽ trong các làng xã truyền thống, khiến cho kết cấu xã hội làng Việt là “kết cấu chặt”.
Việt Nam là một nước có những điều kiện địa lý tự nhiên, khí hậu và hệ sinh thái rất khắc nghiệt. Nằm trong khu vực Châu Á gió mùa, lại có bờ biển dài hơn 3.260km không kể các đảo, hằng năm đất nước ta phải hứng chịu hàng chục cơn bão, lũ. Vả lại, lưu vực sông Hồng, sông Mã không thể là nơi cư trú và canh tác ổn định cho con người nếu không có hệ thống đê điều vững chắc. Nền kinh tế nông nghiệp mà chủ yếu là nghề trồng lúa nước trong điều kiện tự nhiên, sinh thái khắc nghiệt như vậy đã buộc con người phải liên kết chặt chẽ với nhau để trị thủy và giải quyết các hậu quả của thiên tai mà các gia đình cá thể không thể nào đảm đương được. Những người Việt cổ xưa từ trung du tiến dần về đồng bằng, đối mặt với những thảm họa thiên nhiên, buộc phải liên kết nhau để xây dựng hệ thống đê điều ngăn lũ lụt, phải đào kênh rửa chua, khua mặn, hình thành hệ sinh thái thích hợp cho cây lúa nước. Chính vì vậy, nhiều nhà dân tộc học cho rằng sự hình thành đồng bằng Bắc bộ mang dấu ấn của sức người liên kết nhau nhiều hơn là những dấu ấn của tự nhiên. Nhà nghiên cứu người Pháp Pierre Gourou[6] đã nhận xét rằng đồng bằng Bắc bộ Việt Nam là “nơi mà hầu như duy nhất trên thế giới, vai trò của con người quyết định trong quá trình hình thành ngày nay ở đồng bằng Bắc Kỳ một cảnh quan nặng tính nhân tạo hơn tự nhiên”[7].
Như vậy, chính do nền kinh tế nông nghiệp lúa nước trong điều kiện tự nhiên, sinh thái quá khắc nghiệt đã buộc các gia đình tiểu nông liên kết chặt chẽ trong xóm, trong làng. Liên kết chặt trong làng xóm còn nhằm đáp ứng nhu cầu hợp tác để bảo đảm tính thời vụ của cây lúa nước và cũng để bảo vệ nhau chống trộm, chống cướp.
Bên cạnh đó, về mối quan hệ địa chính trị, Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng trên bản đồ khu vực và cả trên bản đồ thế giới. Nằm trên các đầu mối giao thông thủy, bộ quan trọng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, Việt Nam được ví như một đầu cầu từ biển tiến vào đất liền, nơi có những điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hóa, và cũng vì vậy mà thường xuyên bị các thế lực bên ngoài dòm ngó, đe dọa nền độc lập của đất nước. Cho nên, ngay từ buổi đầu dựng nước, tổ tiên ta không lúc nào xao nhãng việc nâng cao khả năng tự vệ bằng phát triển vũ khí và bằng sức mạnh đoàn kết cộng đồng. Thực chất, việc hình thành nhà nước Văn Lang - Âu Lạc cũng xuất phát từ các nhu cầu trị thủy và nhu cầu tự vệ này.  Lối sống cộng đồng Nhà – Làng – Nước hình thành sớm và không ngừng được vun đắp đã trở thành sức mạnh to lớn của dân tộc ta từ buổi đầu dựng nước đến nay. Lối sống cộng đồng là một trong những cơ sở văn hóa, xã hội quan trọng tạo nên kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống.
2.2.2. Quan hệ gia tộc, họ hàng bền vững thắt chặt cộng đồng làng xã Việt Nam truyền thống.
Làng xã Việt Nam là một phức hợp của nhiều tổ chức xã hội, nhiều mối quan hệ đan xen nhau, chồng chéo và chuyển hóa nhau, bao gồm quan hệ láng giềng, quan hệ dòng họ, xóm giáp, nghề nghiệp, quan hệ tín ngưỡng tôn giáo, … Mỗi tổ chức, mỗi quan hệ xã hội đều đặt ra những quy định, quy tắc ứng xử chặt chẽ buộc mọi thành viên phải có trách nhiệm với cộng đồng, giúp làng xã ổn định, trật tự để cùng nhau chung sống và sản xuất. Trong các mối quan hệ đó, mối quan hệ dòng họ là mối liên kết bền vững nhất.
Quá trình tái sản xuất làng xã Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề tăng dân số có thể ban đầu có những gia đình, những người cùng họ hàng huyết thống rủ nhau đi đến những vùng đất mới, khai hoang lập ấp. Nhưng ở nơi cư trú mới còn có nhiều gia đình không cùng huyết thống, tình làng xóm nảy sinh trong quá trình cộng cư và sản xuất, dần dần được thắt chặt hơn khi quan hệ hôn nhân mới nảy sinh, mở rộng thêm quan hệ huyết thống, họ hàng. Quan hệ họ hàng, dòng tộc là một quan hệ bền chặt nhất trong làng xã Việt Nam truyền thống kể cả cho đến ngày nay, nhất là ở đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ.
Ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ, tổ chức cư trú của nhiều làng là theo dòng họ, vì vậy có những làng mang tên dòng họ, ví dụ làng Lưu Xá, Đặng Xá, Đỗ Động… Sự liên kết dòng họ trong các làng xã Việt Nam truyền thống rất chặt chẽ và được biểu hiện phong phú, đa dạng qua các hiện tượng đặt ruộng họ, lập gia phả, tộc phả, xây dựng nhà thờ họ; nhiều dòng tộc còn có tộc ước, diễn ca tộc phả…. Sự liên kết dòng họ trong các làng Việt, một phần có nguồn gốc từ thị tộc nguyên thủy, nhưng về sau, sự liên kết này còn được chính quyền phong kiến và cả chính quyền thực dân trong những thập niên đầu thế kỷ XX duy trì, lợi dụng để dễ dàng cai trị nhân dân. Ví dụ: Luật Gia Long quy định trong họ hàng phải chịu trách nhiệm quản lý dòng họ, bố mẹ phải chịu tội cả của con cháu; thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân cho lập ra các “Ban tộc biểu” hay “Hội đồng tộc biểu” cũng không nằm ngoài ý đồ lợi dụng mối quan hệ dòng họ để thống trị nhân dân ta[8].
Sự cố kết dòng họ có những mặt tích cực như giúp các gia đình tiểu nông khắc phục khó khăn, trở ngại trong sản xuất, trong đời sống. Bên cạnh đó, quan hệ dòng họ cũng tạo ra quan hệ gia trưởng và tông tộc chủ nghĩa, có khi bị chính quyền thống trị quan liêu lợi dụng, hoặc đôi khi quan hệ dòng họ chi phối chính quyền cơ sở, lũng đoạn quan hệ pháp luật, làm biến đổi quan hệ giai cấp… 
Bên cạnh quan hệ dòng họ, làng xã Việt Nam còn có Giáp. Giáp là một đơn vị nhỏ hơn làng, chỉ gồm những người nam giới, được tổ chức theo khu vực địa lý (xóm) hoặc theo dòng họ. Có làng thì một giáp là một họ. Trong Giáp còn phân ra ba lớp theo lứa tuổi: ti ấu (từ nhỏ đến 18 tuổi), tráng đinh (18-50 hoặc 55, hoặc 60 tùy theo làng) và lão. Tổ chức Giáp có những quy định về ứng xử dựa trên nguyên tắc coi trọng người cao tuổi. Những người lên lão được ngồi chiếu trên trong những dịp lễ lạt của làng, được cả làng kính trọng. Nguyên tắc này là truyền thống lâu đời của dân tộc ta, xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, dựa nhiều vào thiên nhiên nên kinh nghiệm sản xuất là yếu tố quan trọng hàng đầu. Các xã quan nắm dân làng thông qua những người đứng đầu các Giáp, gồm ông Cai Giáp (câu đương) và các ông Lềnh giúp việc cho Cai Giáp (Lềnh là đọc trại từ chữ Lệnh). Vì vậy,  “Giáp là khâu trung gian giữa làng và họ, hành chính hóa dòng họ, quản lý dòng họ và quản lý bằng dòng họ”[9].
Nói đến quan hệ dòng họ, không thể không nói đến gia đình, tế bào cơ sở quan trọng của làng, của nước và cũng là đơn vị cơ sở của gia tộc. Trong gia đình Việt Nam, quan hệ ứng xử giữa cha mẹ, ông bà và con cháu, giữa vợ chồng, giữa anh chị em với nhau được quy định chặt chẽ thể hiện những nét đẹp văn hóa đạo đức truyền thống của dân tộc. Đó là tình cảm yêu thương, đùm bọc “trên kính, dưới nhường’, “con hiền, dâu thảo”, “chị ngã, em nâng”, là quan niệm “Đồng vợ đồng chồng,  tát biển Đông cũng cạn”… Những truyền thống đó góp phần làm cho gia đình trở thành nền tảng của xã hội, là đơn vị sản xuất cơ bản của làng xã tiểu nông. Gia đình còn là nền tảng văn hóa, là nơi cung cấp nhân lực, vật lực cho kinh tế, quốc phòng… Chính vì vậy, từ rất xa xưa, trong đời sống xã hội Việt Nam đã hình thành trục quan hệ gắn bó giữa Nhà – Làng – Nước, cơ sở của khối đại đoàn kết quốc gia dân tộc mà hạt nhân là các gia đình cá thể gồm vài ba thế hệ. Đây là đặc điểm hết sức quan trọng, cần được nhận thức sâu sắc nhằm phát huy tối đa vai trò tích cực của gia đình trong giai đoạn phát triển mới của đất nước hiện nay, vì thực tiễn đã chứng minh mọi sự tác động làm suy yếu gia đình đều dẫn tới những suy yếu của đất nước.
2.2.3. Làng xã Việt Nam truyền thống là một phức hợp các quan hệ xã hội tạo nên kết cấu chặt làng xã.
Làng xã Việt Nam truyền thống là một phức hợp các tổ chức, các quan hệ xã hội đan xen, chồng chéo và chuyển hóa nhau, tạo thêm những mối liên kết chặt chẽ giữa các gia đình tiểu nông. Ngoài quan hệ cộng đồng làng xã, quan hệ dòng họ, xóm giáp, hầu hết các làng Việt còn có những quan hệ theo  nghề nghiệp, sở thích, tín ngưỡng tôn giáo…
Quan hệ nghề nghiệp trong làng xã thể hiện qua tổ chức phường, hội thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ. Tổ chức phường, hội tồn tại trong làng xã nông nghiệp xuất phát từ đặc điểm nổi bật của nền kinh tế tiểu nông Việt Nam là sự phân công lao động không triệt để. Hầu hết các làng xã nông thôn Việt Nam đều tồn tại đồng thời ba hoạt động kinh tế chính là nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp. Làng nông nghiệp nào cũng có một số gia đình làm nghề sản xuất các mặt hàng thủ công nghiệp phục vụ cho đời sống và đều có chợ nông thôn, có thể một làng hoặc giữa vài ba làng có một chợ. Chợ nông thôn là nơi diễn ra hoạt động mua bán, trao đổi sản phẩm, tạo nên một vòng khép kín cho nền kinh tế tự cấp, tự túc làng xã. Thậm chí trong một gia đình làm nông, cũng có người làm thêm nghề đan lát, nghề gốm hoặc mua bán. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, làng trồng lúa có thể kết hợp với các hoạt động đánh cá, lâm nghiệp; và hầu hết các làng trồng lúa đều kết hợp chăn nuôi gia súc, gia cầm, cũng như các nghề thủ công khác nhằm lợi dụng sức lao động thừa thãi lúc nông nhàn. Như vậy trong một làng thường có đủ ba ngành sản xuất nông, công, thương nghiệp. Cấu trúc kinh tế này làm cho làng xã trở thành đơn vị cư trú và đơn vị kinh tế khép kín, khiến cho làng xã Việt Nam truyền thống có tính ổn định lâu dài, vững chắc mà những biến động xã hội tác động vào cũng khó làm cho nó thay đổi[10].
Sự phân công lao động không triệt để như vậy khiến cho cấu trúc xã hội trong làng xã Việt Nam, ngoài tổ chức dòng họ, xóm giáp, tôn giáo… còn có tổ chức phường, hội thủ công hoặc mua bán với những quy định chặt chẽ buộc những người cùng nghề phải tuân thủ, nhằm ổn định sản xuất, chống cạnh tranh, giúp nhau làm ăn tạo nên tình đoàn kết, gắn bó giữa những người cùng nghề nghiệp. Sự tồn tại tổ chức phường, hội thủ công hoặc mua bán ngay trong làng xã nông nghiệp là một trong những nét khác biệt của làng xã truyền thống Việt Nam so với các công xã nông thôn ở phương Tây. Ở phương Tây, công xã nông thôn là địa bàn cư trú của các lãnh chúa phong kiến và nông dân, còn thủ công nghiệp và các hoạt động mua bán chỉ diễn ra ở các công xã thành thị riêng biệt.
Bên cạnh các phường, hội nghề nghiệp, hầu như trong mọi làng Việt đều có các hội được tổ chức theo giới tính, chức nghiệp, lứa tuổi. Ví dụ nhiều làng có Hội Tư văn (là tổ chức của các trí thức Nho học), Hội Tư võ hoặc Hội làng binh (của những người đã từng đi lính và các quan võ về ở trong làng), Hội Chư Bà, Hội Mục đồng, Hội Lão… Các Hội này cũng có những quy ước về lễ nghi cúng tế và sinh hoạt, góp phần ràng buộc các thành viên của làng tuân theo những chuẩn mực đạo đức nhằm bảo đảm sự ổn định của làng.
Như vậy, làng xã Việt Nam được hình thành từ tập hợp các gia đình tiểu nông, nhưng giữa các gia đình và giữa các cư dân của làng có những mối liên kết rất đa dạng và đan xen, chồng lên nhau: có tổ chức dòng họ, có phường nghề, có xóm giáp, có hội hè, đình đám, tôn giáo và gắn với các tổ chức đó là những tộc ước, phường lệ rất chặt chẽ, khiến mỗi dân làng luôn luôn phải là thành viên của một hoặc của nhiều cộng đồng, phải tôn trọng những quy ước của cộng đồng. Chính những quan hệ xã hội này đã tạo nên kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống.
2.2.4. Thể chế làng xã với chế độ ruộng công và hương ước khép chặt làng xã Việt Nam truyền thống
Nói đến làng Việt Nam, không thể không nói đến vấn đề ruộng đất, vấn đề cơ bản của nông thôn. Chế độ ruộng đất thời phong kiến với chế độ quân điền quy định ruộng đất công là sở hữu tối cao của nhà nước, nhưng làng xã có quyền chiếm hữu và chia lại cho các dân đinh theo định kỳ.  Chế độ quân điền quy định chỉ dân “chính cư” mới được chia lại ruộng đất. Ngoài ra, dân chính cư được hưởng mọi quyền lợi, còn dân ngụ cư không được hưởng quyền lợi gì mà còn bị khinh rẽ. Sự phân biệt đối xử này cũng là một phương tiện để chính quyền phong kiến quản lý làng xã.  Chế độ ruộng công làng xã sự phân biệt đối xử gay gắt giữa dân chính cư và dân ngụ cư đã cột chặt người nông dân với làng quê. Họ không muốn và không thể rời làng, vì họ không có đất dung thân ở ngoài làng của họ.  Chế độ quân điền góp phần làm cho làng xã cổ truyền Việt Nam khép chặt, củng cố thêm tình cảm làng xóm, lối sống cộng đồng.
Việc làng xã nắm quyền chiếm hữu và phân phối ruộng đất công cho dân khiến cho làng xã có vai trò trực tiếp chi phối nông dân, tạo nên tính tự trị, tự quản làng xã. Tính tự trị làng xã thể hiện qua hương ước và được củng cố bằng hương ước.
Hương ước là những lệ làng, phản ánh sự tự nguyện lệ thuộc lẫn nhau của các thành viên trong làng xã với những quy định chặt chẽ, cụ thể về mọi vấn đề quan hệ xã hội, văn hóa…  Hương ước phản ánh những đặc thù văn hóa, xã hội của từng làng xã. Xuất phát từ chỗ mỗi làng Việt thường có những diện mạo, sắc thái riêng tuỳ thuộc vào đặc điểm dòng họ, nghề nghiệp, tục lệ thờ cúng, sinh hoạt… cho nên trong bộ luật Hồng Đức, lần đầu tiên Nhà nước phong kiến cho phép các làng nếu có những tục lệ riêng có thể lập hương ước thành văn trên cơ sở có sự kiểm tra, phê duyệt của chính quyền địa phương. Đây là một sáng kiến của nhà Lê trong tổ chức quản lý hành chính, vì chính thông qua việc cho phép lập hương ước (có sự phê duyệt của chính quyền), Nhà nước trung ương vừa tôn trọng nhu cầu tự trị vốn đã trở thành đặc tính của làng xã, đồng thời, vẫn nắm được quyền quản lý làng xã chứ không phải phó mặc hoặc bất lực trước các tập tục của các làng.
Hương ước là một trong những yếu tố hết sức quan trọng tạo nên kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống. Với Hương ước, mỗi làng Việt cổ truyền có những sắc thái, phong tục, tập quán riêng biệt, không lẫn với các làng khác. Nhờ hương ước và tính tự trị làng xã mà trong thời kỳ Bắc thuộc, các làng xã cổ truyền Việt Nam giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc trước âm mưu đồng hóa của các thế lực phong kiến Hán, Đường.
Làng xã vừa là đơn vị cư trú tự nhiên, vừa là đơn vị hành chính do chính quyền trung ương thiết lập, nên làng xã vừa mang tính phụ thuộc nhà nước, vừa có tính tự trị tương đối. Với hương ước, tính tự trị làng xã tồn tại dai dẳng, ngay cả khi ruộng công không còn.
Tính tự trị và kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống còn được củng cố qua cách bố trí các điểm quần cư cụm chặt từng làng, có rào làng, có lũy tre xanh bao bọc, có cổng làng… Đây là hình thái điển hình của các làng Việt ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Còn từ Trung Trung bộ trở vào đồng bằng sông Cửu Long, hình thái bố trí làng xã lỏng lẻo dần, mang tính mở chứ không khép chặt như làng Miền Bắc. Cách bố trí làng xã trải dài theo sông rạch, nhà cửa rải rác, không cụm chặt của làng Nam bộ là hình thái bố trí thích ứng với tự nhiên do yêu cầu của điều kiện đất đai, sinh thái và yêu cầu khẩn hoang của vùng đất Nam bộ. Đất đai ở đây rộng lớn, làng mở cho phép dân nhập cư dễ dàng, bổ sung nhân lực cho công cuộc khai khẩn đất hoang. Vả lại, Nam bộ là vùng đất phù sa mới với bưng biền, đầm lầy cần đào kênh xả phèn, kênh lưu thông vận chuyển thay cho đường bộ, nhà ở phân bổ trải dài theo sông rạch nhằm tạo thuận lợi cho sinh hoạt đi lại và vận chuyển nông sản của người dân.
2.2.5. Văn hóa làng xã Việt Nam vừa là biểu hiện, vừa tạo nên kết cấu chặt làng xã Việt Nam truyền thống.
Văn hóa làng Việt thể hiện những sắc thái văn hóa độc đáo của mỗi làng xã, góp phần hợp thành bản sắc văn hóa chung, vừa thống nhất vừa phong phú, đa dạng của văn hóa vùng, miền, dân tộc. Văn hóa làng là cái hồn dân tộc, là văn hóa của nền văn minh nông nghiệp lâu đời của người Việt.
Nét đặc sắc nhất của văn hóa làng là tinh thần cộng đồng, tính cố kết làng xã với những mặt tích cực cần được phát huy như tinh thần “ tương thân, tương ái”, “tối lửa tắt đèn có nhau”; là tinh thần trọng đạo đức, lễ nghĩa trong quan hệ gia đình, họ tộc, làng xóm; là ý thức trách nhiệm rất cao của cá nhân đối với cộng đồng khiến cho các thành viên của làng luôn phấn đấu để làng xã của mình hay dòng mình không bị mất mặt…
Mặc dù làng Việt có tính khép kín, tính tự trị nhưng bên cạnh đó, trong tiến trình lịch sử dân tộc, các mối quan hệ cộng đồng liên làng, siêu làng[11] cũng hình thành và tồn tại đồng thời với cộng đồng làng, hình thành nên tình cảm quốc gia dân tộc, hình thành trục quan hệ cơ bản Nhà – Làng -  Nước thống nhất, hình thành ý thức độc lập tự chủ, tình yêu Tổ quốc, tinh thần xả thân vì nước, quan niệm việc nước trên việc nhà… Những tình cảm, những giá trị văn hóa đó trở thành tâm hồn, tình cảm tự nhiên, máu thịt của người Việt và là sức mạnh của người Việt trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc. 
Như vậy, làng xã Việt Nam là một cộng đồng xã hội có “kết cấu chặt”. Cơ sở kinh tế - xã hội tạo nên kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống là sự liên kết dòng họ, xóm (giáp), mối quan hệ nghề nghiệp, tín ngưỡng tôn giáo, các cơ sở chính trị, văn hóa… thể hiện những nét đặc thù của dân tộc Việt Nam. Hay nói khác hơn, kết cấu chặt làng xã Việt Nam được hình thành từ những nguyên tắc tổ chức nông thôn theo nhiều kiểu cộng đồng nằm trong cộng đồng làng xã. Các tổ chức, các mối quan hệ này đan xen nhau làm cho mối quan hệ giữa các gia đình tiểu nông trong làng xã thêm chặt chẽ, gắn với Hương ước, lệ làng, tộc ước, quy định của các phường, hội, những quy tắc văn hóa, đạo đức của dân tộc…
Kết cấu chặt của làng xã Việt Nam là một đặc điểm nổi bật trong kết cấu xã hội làng Việt truyền thống, cần được nghiên cứu thấu đáo nhằm khai thác, vận dụng những mặt tích cực cũng như loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay. 
3. LIÊN HỆ VỚI LÀNG XÃ VIỆT NAM HIỆN NAY
Hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình đấy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu trên, Đảng ta xác định “công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; và để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trước hết, “phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đàm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân”[12].
Cụ thể hóa chủ trương trên,  ngày 04 tháng 6 năm 2010, Chính phủ ra Quyết định số 800/QĐ-Ttg về “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020” . Để thực hiện tốt các mục tiêu trên, trước hết cần đánh giá thực trạng làng xã Việt Nam hiện nay, từ đó vận dụng, phát huy những mặt tích cực trong kết cấu xã hội của làng xã truyền thống, nhằm xây dựng làng xã nông thôn mới văn minh, hiện đại.
3.1.Đánh giá tình hình làng xã nông thôn trong thời gian qua
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, bộ mặt của nông thôn Việt Nam trong những năm qua đã có những chuyển biến tích cực như kết cấu hạ tầng kinh tế ở làng xã được củng cố và nâng cao chất lượng, nhiều làng xã đã xuất hiện những mô hình nông dân sản xuất giỏi, đời sống nông dân ngày càng được cải thiện, các giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa làng xã được khôi phục và phát triển… Bên cạnh đó, thực trạng nông thôn cũng đang diễn ra những vấn đề phức tạp, nhiều nơi có  xu hướng khôi phục các hình thức lễ hội, xây dựng nhà thờ họ, xây dựng mồ mả dòng tộc một cách quá đáng, nặng tính hình thức… Những hiện tượng này có mặt tích cực là góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị của truyền thống dân tộc trong quá trình xây dựng nông thôn mới, chống lại sự xa rời bản sắc văn hóa dân tộc, mặt trái của cơ chế thị trường và quá trình hội nhập. Tuy nhiên, nó cũng dẫn tới những biểu hiện tiêu cực: khôi phục cả những yếu tố tàn dư lạc hậu của làng xã truyền thống như  tư tưởng cục bộ, địa phương chủ nghĩa, chỉ biết tới họ mình, làng mình; bệnh phô trương hình thức, đua nhau xây dựng mồ mả dòng tộc, nhà thờ họ, xây dựng kết cấu hạ tầng làng xã, từ đó động viên sức dân quá mức gây khó khăn cho cuộc sống của người dân và những bất bình của nhân dân đối với các chương trình, chính sách  phát triển nông thôn của nhà nước.
Hương ước, tính tự trị, tự quản làng xã là tập quán lâu đời của người Việt và đã từng được chính quyền phong kiến vận dụng, biến thành một biện pháp quản lý xã hội rất tích cực. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhiều lần đưa ra những định hướng nhằm phát huy các giá trị tích cực của hương ước, xây dựng làng xã tự quản, dân chủ. Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá VII) ngày 10/6/1993 về Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn đã đề ra nhiệm vụ: “Phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội, phát huy tình làng nghĩa xóm, khuyến khích xây dựng và thực hiện các hương ước, quy ước về nếp sống văn minh thôn, xã”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung  ương Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã nêu : “Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hoá, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh...”; Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII: “Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân, làm chủ thông qua đại diện là các cơ quan dân cử và các đoàn thể, làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng hương ước, quy ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp nhà nước”… Bên cạnh đó nhà nước cũng ra nhiều Chỉ thị, thông tư hướng dẫn việc thực hiện hương ước, quy chế tự quản làng xã[13], nhờ vậy, việc xây dựng hương ước, xây dựng  quy chế tự quản đã thực hiện phổ biến, trở thành một trong những nội dung của phong trào xây dựng nông thôn mới. Thực tế cho thấy một số làng xã có phong trào tự quản tốt đã khơi dậy được tình làng nghĩa xóm, khơi dậy ý thức trách nhiệm của thành viên đối với gia đình, dòng họ, làng xóm, chia sẻ buồn vui, điều hay lẽ phải, qua đó loại bỏ được những sai trái của nhiều cá nhân và gia đình, giải quyết có hiệu quả nhiều vụ việc phức tạp xảy ra, góp phần giữ vững an ninh trật tự ở nông thôn hiện nay.
Về cơ cấu kinh tế làng xã, cho đến nay, tình hình sản xuất ở nông thôn Việt Nam nhìn chung vẫn phổ biến là sản xuất nhỏ, đất đai bị chia manh mún không thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất kinh tế hàng hóa lớn. Bên cạnh đó, còn có một số vấn đề nghịch lý nảy sinh xung quanh vấn đề ruộng đất nông thôn. Người nông dân ngày nay không bị vấn đề ruộng đất cột chặt với làng, trái lại họ không yên tâm sản xuất để làm giàu trên mảnh ruộng của mình, vì trong thời buổi kinh tế thị trường, sản xuất nông nghiệp nhỏ trở nên quá bấp bênh, thu nhập không bảo đảm cho cuộc sống của họ, cùng với cơn lốc đô thị hóa… khiến nhiều nông dân bỏ làng quê ra thành thị mong tìm kiếm một mức thu nhập khá hơn. Tình hình này dẫn đến nhiều làng xã nông thôn Bắc bộ đất bị bỏ hoang, trong khi nếu tính bình quân diện tích đất sản xuất trên đầu người, thì quỹ đất nước ta còn rất thiếu (chỉ vài trăm mét vuông/ người). Đúng, nông thôn là nơi cung cấp nhân lực cho các đô thị trong quá trình công nghiệp hóa, nhưng không vì thế mà làm cho nông thôn trở thành nơi chỉ còn lại những ông bà già và con trẻ, vì lực lượng lao động ưu tú nhất (thanh niên, người trẻ) không còn muốn ở làng. Nhưng muốn cho người dân gắn bó với làng thì vấn đề quan trọng trước tiên là làng quê phải bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho họ, làng quê phải là chốn bình yên chứ không phải là những nơi chịu đựng sự ô nhiễm môi trường từ những khu đô thị và những nhà máy mọc lên một cách thiếu kiểm soát như tình hình ở nhiều vùng nông thôn hiện nay mà báo chí thường nói tới; thậm chí nhiều làng xã nông thôn hiện nay còn phải chịu đựng những bất công do tình trạng một bộ phận cán bộ cơ sở không đủ trình độ và thiếu đạo đức, không quan tâm giải quyết những bức xúc của dân và làm lợi cho dân, mà chỉ tìm cách lợi dụng cơ chế để kiếm lợi cho mình.  Đây là những vấn đề cần giải quyết trong quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay.
3.2. Phát huy những mặt tích cực trong kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống vào  xây dựng nông thôn mới hiện nay
Qua nghiên cứu kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống, ta có thể vận dụng những mặt tích cực liên quan tới kết cấu làng xã truyền thống để góp phần xây dựng nông thôn Việt Nam hiện đại, văn minh phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ nhất, trong quy hoạch nông thôn mới, cần nghiên cứu kế thừa cách tổ chức, phân bố làng xóm truyền thống theo vùng miền, ví dụ kiểu làng co cụm ở Miền Bắc hay kiểu làng trải theo sông rạch, trục giao thông của Miền Nam, tránh phá vỡ cảnh quan nông thôn truyền thống, tránh biến nông thôn thành những đô thị nửa vời. Tuy nhiên, để hiện đại hóa nông thôn, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân, cần quy hoạch các khu sản xuất công nghiệp nông thôn, làng nghề, khu vực chăn nuôi xa xóm làng cư trú nhằm bảo đảm môi trường sống sạch đẹp cho làng xã.
Thứ hai, Hương ước, lệ làng vừa có mặt tích cực như thể hiện tính dân chủ và đề cao trách nhiệm tự quản của làng xã, vừa có mặt tiêu cực là tâm lý “phép vua thua lệ làng”. Tâm lý này ít nhiều còn tồn tại ở hệ thống chính trị cơ sở nông thôn là một trong những yếu tố cản trở tiến trình xây dựng và hoàn thiện một nền hành chính công bằng. bình đẳng, tiến bộ, văn minh, dân chủ, pháp quyền; cản trở việc thực hiện nguyên tắc “sống và làm việc theo pháp luật”. Vận dụng và phát huy yếu tố tích cực, khắc phục hạn chế của của hương ước, lệ làng trong truyền thống, các tổ tự quản và chính quyền cơ sở làng xã có thể tổ chức cho nhân dân bàn bạc, thảo luận để xây dựng hương ước mới, vừa kế thừa những quy định còn phù hợp trong hương ước và trong văn hóa làng xã cũ, đồng thời đưa thêm những nội dung mới về nếp sống văn minh trong những thủ tục cưới xin, ma chay, lễ hội, về xây dựng gia đình văn hoá, làng xóm văn hóa… Hương ước, quy chế tự quản sau khi nhân dân thông qua, cần được chính quyền địa phương phê duyệt nhằm bảo đảm các quy định của làng xã không  trái với pháp luật. Quy chế cần phát cho các hộ dân để các gia đình, các cá nhân có trách nhiệm thực hiện và dần dần trở thành ý thức tự giác. 
Thứ ba, xây dựng nông thôn mới cần giải quyết tốt vấn đề kinh tế nông thôn nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân. Để tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, cần tập trung đất đai, thực hiện sản xuất lớn. Chính sách dồn điền, đổi thửa được thực hiện trong thời gian qua là một cách làm hay, nhưng cần có những biện pháp cụ thể, nhất là cần xác định giá cả đền bù khi chuyển đổi phù hợp với giá cả  thị trường nhằm bảo đảm công bằng trong chuyển đổi. Nhà nước cần có chính sách rõ ràng hơn trong quy định thời hạn sử dụng đất nông nghiệp nhằm khuyến khích những người có điều kiện thành lập các trang trại lớn, đưa sản xuất nông nghiệp tiến lên hiện đại.
Thứ tư, nhà nước cần có những chính sách khuyến khích các nhà đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chế biến nông sản tại các vùng nông thôn xa xôi, vừa tạo điều kiện cho nông sản không bị tư thương ép giá, vừa tạo việc làm tại chỗ, thu hút một bộ phận đông đảo sinh viên đại học, cao đẳng sau khi ra trường trở lại tham gia xây dựng nông thôn mới.   
Thứ năm, tính liên kết chặt cộng đồng làng xã bên cạnh những mặt tích cực như dễ huy động sức mạnh của dân làng cùng giải quyết những vấn đề chung của làng xã, còn có mặt hạn chế như tính cục bộ, địa phương chủ nghĩa, có thể dẫn đến mâu thuẫn giữa các bộ phận, sự không thống nhất giữa các làng xã với nhau và giữa làng với nước. Để tránh tình trạng này, cần củng cố và phát triển văn hóa làng xã, phát huy tính cộng đồng làng xã, xây dựng ý thức đặt lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, xây dựng tình làng nghĩa xóm, giúp đỡ nhau trong sản xuất và trong cuộc sống, giữ gìn đạo đức truyền thống trong gia đình, tôn ti trật tự trong họ hàng, làng xóm. Cần phát huy vai trò của gia đình truyền thống trong việc giáo dục thế hệ trẻ về tình làng nghĩa xóm, ý thức cộng đồng, lối sống đạo đức trong sạch, lành mạnh, không coi tiền tài, vật chất là trên hết.

KẾT LUẬN
Làng xã Việt Nam là một cộng đồng gồm nhiều gia đình sản xuất tiểu nông liên kết chặt chẽ với nhau qua hàng loạt mối quan hệ ràng buộc, bao gồm quan hệ dòng tộc, xóm giáp, phường hộ, tìn ngưỡng tôn giáo, hội hè…Các mối quan hệ  trên được vật chất hóa thành những tổ chức cụ thể với những sợi dây ràng buộc chặt chẽ là Hương ước, tộc ước, phường lệ… Những ràng buộc này tạo nên ý thức cộng đồng, lối sống cộng đồng là một trong những đặc trưng của văn hóa Việt Nam, đồng thời tạo nên kết cấu chặt làng xã Việt nam truyền thống.
Kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống có những mặt tích cực mà ngày nay ta cần phát huy trong quá trình xây dựng nông thôn mới, đó là lối sống cộng đồng, đoàn kết nhau xây dựng làng xã, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là tình cảm chân chất, lối sống đạo đức trong sạch, giản dị… Trong xây dựng nông thôn mới, cần phát huy các giá trị tích cực của làng xã truyền thống, đồng thời chú trọng khắc phục, loại bỏ những tác động tiêu cực có thể cản trở tiến trình cngho, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
______________

1. Bùi Quang Dũng (2010), Xã hội học nông thôn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin.
3. Đặng Đức Siêu (2002), Hành trình văn hóa Việt Nam (giản yếu), Nxb Lao Động, HN.
4. Đỗ Danh Huấn (2010), Làng Việt – đối tượng nghiên cứu của Khu vực học, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học XH&NV số 26.
5. Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn.
6. Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống  chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb CTQG, HN, tr 37.
7. Lê Văn Chưởng (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường Đại học khoa học Tự nhiên Tp.HCM.
8. Lê Minh Thông, Luật nước và hương ước, lệ làng trong đời sống pháp lý của các cộng đồng làng xã Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 3 năm 2008 của trường Đại học Quốc gia Hà Nội
9. Nguyễn Minh Tuấn, Nhận diện xã hội làng xã xưa và nay, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, số 11 và số 12 năm 2004
10. Phan Đại Doãn (2010),  Làng xã Việt Nam-Một số vấn đề kinh tế văn hóa xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia.
11. Phan Đại Doãn (1992), Làng Việt Nam, một số vấn đề kinh tế xã hội, Nxb KHXH, Nxb Mũi Cà Mau.
12. Thái Kim Đỉnh (chủ biên – 2000), Làng cổ Hà Tĩnh, tập I, Sở Văn hóa Thông tin và Hội LHVHNT Hà Tĩnh xb.
13. Trần Thị Thu Lương (1993), Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử: Bước đầu tìm hiểu chế độ sở hữu ruộng đất và canh tác ruộng đất ở làng Việt Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX qua địa bạ.
14. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo Dục.
15. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2001), Đại cương lịch sử  Việt Nam toàn tập, Nxb GD.
16. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, HN.





[1] Trần Từ: “Tìm hiểu làng Việt cổ truyền. Làng xã Hương Sơn, ghi chép dân tộc học”. Tạp chí NCLS, 1975, số 165, tr 35 (dẫn theo Hoàng Chí Bảo, “Hệ thống  chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay”. Nxb CTQG, HN _ 2004, tr 37.
[2] Trương Hữu Quýnh, Đnh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb GD, tr 43.
[3] Viện KHXHVN (1992), Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, HN, tr 1117.
[4] Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb.GD, tr 94.
[5] Phan Đại Doãn (2010), Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, Nxb CTQG, tr 88.
[6]Pierre Gourou là chuyên gia về nông thôn Đông Dương , đặc biệt là ở đồng bằng Bắc Bộ.
[7] Dẫn theo Phan Đại Doãn (2010), Làng xã Việt Nam. Một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, Nxb CTQG, tr 88.
 [8] Phan Đại Doãn, Phan Đại Doãn (2010), Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, Nxb CTQH, HN, tr 91-92.
[9] Phan Đại Doãn (2010), Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, Nxb CTQH, HN, tr 92.
[10] Phan Đại Doãn, sđd, tr 95.
[11] Mối quan hệ liên làng, siêu làng là những mối liên hệ ngài cấu trúc làng xã, nhưng nói đến văn hóa dân tộc thì không thể không nói tới các quan hệ cộng đồng này. Mối quan hệ liên làng là quan hệ giữa làng này với làng khác; còn quan hệ siêu làng là quan hệ giữa làng hoặc các tổ chức của làng với những cộng đồng lớn hơn làng (theo Hà Văn Tấn, Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, tr 33-34).
[12] Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn

[13] Ngày 19/6/1998 Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 24 về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước làng bản thôn, ấp, cụm dân cư. Ngày 31/ 3/2000, Bộ Tư pháp, Bộ VH-TT, Ban Thường trực ỦBTWMTTQVN ra Thông tư liên tịch hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng bản thôn, ấp, cụm dân cư.