NHỮNG CƠ SỞ KINH TẾ - XÃ HỘI TẠO NÊN KẾT CẤU CHẶT CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG. LIÊN HỆ VỚI LÀNG XÃ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
LÝ
KIM CƯƠNG
LỚP: CAO HỌC LSVN
KHÓA:
2010-2012 (ĐỢT 1)
(ĐH KHXH&NV Tp.HCM)
----------------------
MỞ ĐẦU
Từ
hàng trăm năm qua, làng xã Việt Nam truyền thống đã trở thành đối tượng khoa
học của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới, bởi làng xã Việt Nam
có những đặc trưng riêng, không giống với tổ chức làng xã của nhiều nước trên
thế giới. Ngay cả so với với các nước trong khu vực Đông Nam Á, cùng là những
nền kinh tế tiểu nông, cùng là những nước trồng lúa nước và có sự giao lưu văn
hóa với nước ta từ rất lâu đời, làng Việt truyền thống vẫn có nhiều đặc điểm khác
biệt. Hơn nữa, làng xã Việt Nam truyền thống là biểu hiện tập trung của văn hóa
Việt Nam, chứa đựng sức mạnh tiềm tàng của dân tộc Việt Nam trong suốt tiến
trình tồn tại và phát triển.
Làng
xã Việt Nam là một thực thể phong phú và phức tạp với những quan hệ kinh tế, xã
hội đan xen, chồng chéo, chuyển hóa nhau tạo nên những giá trị truyền thống vừa
có những yếu tố tích cực vừa chứa đựng những hạn chế nhất định…Vì vậy, nghiên
cứu thấu đáo làng xã Việt Nam truyền thống không chỉ giúp nhận thức đầy đủ xã
hội và văn hóa Việt Nam trong lịch sử, mà còn giúp khai thác các yếu tố tích
cực của làng xã truyền thống trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội để kế thừa và vận dụng phù hợp trong thời kỳ mới hiện nay.
Nghiên
cứu đề tài “Những cơ sở kinh tế- xã hội tạo nên kết cấu chặt của làng xã Việt
Nam truyền thống. Liên hệ với làng xã Việt Nam hiện đại” nhằm giúp nâng cao hiểu
biết về làng xã cổ truyền của nước ta, hiểu được những cơ sở kinh tế, xã hội
tạo nên đặc điểm nổi bật trong cấu trúc xã hội của làng Việt, đó là “kết cấu
chặt”. Nắm được những vấn đề trên là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng phục vụ cho chương trình xây dựng nông thôn mới, góp phần thực hiện
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
NỘI DUNG
1.KHÁI NIỆM “LÀNG”, “XÔ
Làng
là một từ “nôm”, một khái niệm trong ngôn ngữ đời sống, dùng để chỉ những đơn
vị cư trú truyền thống của người Việt, trong đó, các gia đình sống quây quần
trên một địa vực riêng, có kết cấu hạ
tầng kinh tế -xã hội, cơ cấu tổ chức và luật lệ, phong tục, tập quán riêng.
Làng là một tổ chức chặt chẽ, một đơn vị hoàn chỉnh về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, tâm lý, tín ngưỡng của người Việt. Theo nhà nghiên cứu Trần Từ,
làng là một tế bào sống của xã hội Việt thời cổ, là sản phẩm tự nhiên của quá
trình định cư và cộng cư của người Việt trồng trọt [1].
Làng được
hình thành từ rất lâu đời trong lịch sử dân tộc ta. Từ thời Hùng Vương dựng
nước đã xuất hiện những xóm làng định cư trên những khu vực cư trú rộng lớn
vùng đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ. Mỗi làng thường có một dòng họ chính và
một số dòng họ khác cùng sinh sống. Đây là hình thức “công xã nông thôn kiểu Á
Châu” và là tiền đề cho sự hình thành quốc gia, nhà nước. Lúc bấy giờ, các công
xã nông thôn này được người Việt gọi là “kẻ” hoặc “chiềng”, “chạ”; về sau được
gọi là làng[2].
Xã là từ
Hán Việt, dùng để chỉ “đơn vị hành chính cơ sở ở nông thôn, bao gồm một số
thôn”[3]. Thời
kỳ họ Khúc xây dựng nền độc lập tự chủ, xã được thiết lập thay cho các công xã
nông thôn trước đó, mà công xã nông thôn chính là làng. Như vậy, xã được hình
thành muộn hơn làng và là sản phẩm của nhu cầu quản lý xã hội của bộ máy chính
quyền phong kiến trung ương. Trong lịch sử, ở các thời kỳ khác nhau, quy mô xã
thường có nhiều biến đổi nhằm phục vụ cho mục đích quản lý của chính quyền. Ví
dụ: thời kỳ Bắc thuộc, để chi phối làng Việt, thực hiện âm mưu đồng hóa dân tộc
ta, các thế lực phong kiến phương Bắc thiết lập xã với phạm vi nhỏ hơn làng (xã
đặt dưới hương). Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, phạm vi xã cũng có
nhiều biến đổi: có những xã vừa và nhỏ, loại xã “nhất xã nhất thôn”; và có những
xã lớn, gồm nhiều thôn hợp lại (loại xã “nhất xã nhị, tam thôn)... Danh từ “xã”
thường được dùng trong văn bản hành chính, trong sổ sách; còn trong nhân dân,
người dân quen gọi là làng. Như vậy, làng vốn là một đơn vị cư trú, về sau
chuyển thành đơn vị hành chánh cơ sở là xã. Trong thời kỳ Pháp thuộc, ở nhiều
nơi, một xã cũng là một làng nên người dân hay gọi chung là làng xã. Ở Nam bộ
còn có khái niệm “ấp”. Ấp là làng, xóm nhỏ, được lập nên ở nơi mới khai khẩn,
hoặc thôn ở biệt lập[4]. Tại
đây, khi cư dân còn ít, xã là làng, là xóm ấp; nhưng khi dân cư và địa vực hành
chính mở rộng, một xã thường gồm nhiều ấp và trong một ấp có thể gồm nhiều xóm.
Làng
xã còn là đơn vị kinh tế – xã hội phổ biến của nông thôn Việt Nam, một thực thể
phong phú và phức tạp, vừa chứa đựng những tinh hoa dân tộc, vừa bao hàm những
hạn chế, tàn dư dai dẳng của xã hội cũ – xã hội tiểu nông. Nhận thức rõ đặc
điểm kết cấu của làng xã cổ truyền Việt Nam có thể giúp ta kế thừa được những
giá trị tích cực, những tinh hoa đặc sắc của dân tộc; đồng thời, khắc phục
những yếu tố tiêu cực có thể cản trở bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn hiện nay.
2. NHỮNG CƠ SỞ KINH TẾ - XÃ HỘI TẠO
NÊN KẾT CẤU CHẶT CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
2.1. Về “kết cấu chặt” của làng xã
Việt Nam truyền thống
Khi
nghiên cứu kết cấu xã hội của làng xã ở các nước Đông Nam Á, nhiều nhà dân tộc
học gọi làng của Thái Lan là “cấu trúc lỏng”, kể cả các làng của Lào, Cam - pu
- chia cũng có mối quan hệ giữa các gia đình tiểu nông không chặt lắm và quan
hệ huyết thống cũng lỏng lẻo chứ không “chặt” như làng xã Việt Nam[5].
“Kết cấu chặt” là đặc điểm nổi bật của cấu trúc xã hội làng xã Việt Nam truyền
thống. Đặc điểm này thể hiện ở mối quan hệ gắn bó, liên kết chặt chẽ giữa các
gia đình tiểu nông trong làng xã, tạo nên tính cộng đồng làng xã rất cao. Kết
cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống được hình thành từ những cơ sở kinh
tế, xã hội mang tính đặc thù của nền sản xuất tiểu nông Việt Nam diễn ra trong
những điều kiện tự nhiên, chính trị cũng rất đặc thù của đất nước.
2.2. Những cơ sở kinh tế- xã hội tạo
nên kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống
2.2.1.Nền kinh tế nông nghiệp lúa
nước trong điều kiện tự nhiên đặc thù của Việt Nam là nhân tố quan trọng tạo
nên tính cố kết cộng đồng làng chặt chẽ.
Hoạt
động kinh tế cơ bản của làng xã Việt Nam từ xưa đến thế kỷ XIX - XX là hoạt
động kinh tế tiểu nông, với nghề sản xuất chính là trồng lúa nước. Canh tác lúa
nước với những mảnh ruộng nhỏ bé, công cụ lao động thô sơ như ở Việt Nam, nhất
là ở Miền Bắc Việt Nam lẽ ra thích hợp với kiểu làm ăn cá thể, không cần liên
kết rộng lớn nhiều gia đình hay toàn làng. Vì vậy, liên kết giữa các gia đình
trong làng xã tiểu nông của nhiều nơi trên thế giới thường lỏng lẻo. Tuy nhiên,
ở Việt Nam, do những đặc điểm riêng về tự nhiên, kinh tế, xã hội đã tạo nên
những liên kết xã hội chặt chẽ trong các làng xã truyền thống, khiến cho kết
cấu xã hội làng Việt là “kết cấu chặt”.
Việt
Nam là một nước có những điều kiện địa lý tự nhiên, khí hậu và hệ sinh thái rất
khắc nghiệt. Nằm trong khu vực Châu Á gió mùa, lại có bờ biển dài hơn 3.260km
không kể các đảo,
hằng năm đất nước ta phải hứng chịu hàng chục cơn bão, lũ. Vả lại, lưu vực sông
Hồng, sông Mã không thể là nơi cư trú và canh tác ổn định cho con người nếu
không có hệ thống đê điều vững chắc. Nền kinh tế nông nghiệp mà chủ yếu là nghề
trồng lúa nước trong điều kiện tự nhiên, sinh thái khắc nghiệt như vậy đã buộc
con người phải liên kết chặt chẽ với nhau để trị thủy và giải quyết các hậu quả
của thiên tai mà các gia đình cá thể không thể nào đảm đương được. Những người
Việt cổ xưa từ trung du tiến dần về đồng bằng, đối mặt với những thảm họa thiên
nhiên, buộc phải liên kết nhau để xây dựng hệ thống đê điều ngăn lũ lụt, phải
đào kênh rửa chua, khua mặn, hình thành hệ sinh thái thích hợp cho cây lúa
nước. Chính vì vậy, nhiều nhà dân tộc học cho rằng sự hình thành đồng bằng Bắc
bộ mang dấu ấn của sức người liên kết nhau nhiều hơn là những dấu ấn của tự
nhiên. Nhà nghiên cứu người Pháp Pierre Gourou[6] đã
nhận xét rằng đồng bằng Bắc bộ Việt Nam là “nơi mà hầu như duy nhất trên thế
giới, vai trò của con người quyết định trong quá trình hình thành ngày nay ở
đồng bằng Bắc Kỳ một cảnh quan nặng tính nhân tạo hơn tự nhiên”[7].
Như
vậy, chính do nền kinh tế nông nghiệp lúa nước trong điều kiện tự nhiên, sinh
thái quá khắc nghiệt đã buộc các gia đình tiểu nông liên kết chặt chẽ trong
xóm, trong làng. Liên kết chặt trong làng xóm còn nhằm đáp ứng nhu cầu hợp tác
để bảo đảm tính thời vụ của cây lúa nước và cũng để bảo vệ nhau chống trộm,
chống cướp.
Bên
cạnh đó, về mối quan hệ địa chính trị, Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng
trên bản đồ khu vực và cả trên bản đồ thế giới. Nằm trên các đầu mối giao thông
thủy, bộ quan trọng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, Việt Nam được ví như
một đầu cầu từ biển tiến vào đất liền, nơi có những điều kiện thuận lợi cho
giao lưu kinh tế, văn hóa, và cũng vì vậy mà thường xuyên bị các thế lực bên ngoài
dòm ngó, đe dọa nền độc lập của đất nước. Cho nên, ngay từ buổi đầu dựng nước,
tổ tiên ta không lúc nào xao nhãng việc nâng cao khả năng tự vệ bằng phát triển
vũ khí và bằng sức mạnh đoàn kết cộng đồng. Thực chất, việc hình thành nhà nước
Văn Lang - Âu Lạc cũng xuất phát từ các nhu cầu trị thủy và nhu cầu tự vệ này. Lối sống cộng đồng Nhà – Làng – Nước hình
thành sớm và không ngừng được vun đắp đã trở thành sức mạnh to lớn của dân tộc ta
từ buổi đầu dựng nước đến nay. Lối sống cộng đồng là một trong những cơ sở văn
hóa, xã hội quan trọng tạo nên kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống.
2.2.2.
Quan hệ gia tộc, họ hàng bền vững thắt chặt cộng đồng làng xã Việt Nam truyền
thống.
Làng
xã Việt Nam là một phức hợp của nhiều tổ chức xã hội, nhiều mối quan hệ đan xen
nhau, chồng chéo và chuyển hóa nhau, bao gồm quan hệ láng giềng, quan hệ dòng
họ, xóm giáp, nghề nghiệp, quan hệ tín ngưỡng tôn giáo, … Mỗi tổ chức, mỗi quan
hệ xã hội đều đặt ra những quy định, quy tắc ứng xử chặt chẽ buộc mọi thành
viên phải có trách nhiệm với cộng đồng, giúp làng xã ổn định, trật tự để cùng
nhau chung sống và sản xuất. Trong các mối quan hệ đó, mối quan hệ dòng họ là
mối liên kết bền vững nhất.
Quá
trình tái sản xuất làng xã Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề tăng dân số có thể
ban đầu có những gia đình, những người cùng họ hàng huyết thống rủ nhau đi đến
những vùng đất mới, khai hoang lập ấp. Nhưng ở nơi cư trú mới còn có nhiều gia
đình không cùng huyết thống, tình làng xóm nảy sinh trong quá trình cộng cư và
sản xuất, dần dần được thắt chặt hơn khi quan hệ hôn nhân mới nảy sinh, mở rộng
thêm quan hệ huyết thống, họ hàng. Quan hệ họ hàng, dòng tộc là một quan hệ bền
chặt nhất trong làng xã Việt Nam truyền thống kể cả cho đến ngày nay, nhất là ở
đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ.
Ở Bắc
bộ và Bắc Trung bộ, tổ chức cư trú của nhiều làng là theo dòng họ, vì vậy có
những làng mang tên dòng họ, ví dụ làng Lưu Xá, Đặng Xá, Đỗ Động… Sự liên kết
dòng họ trong các làng xã Việt Nam truyền thống rất chặt chẽ và được biểu hiện
phong phú, đa dạng qua các hiện tượng đặt ruộng họ, lập gia phả, tộc phả, xây
dựng nhà thờ họ; nhiều dòng tộc còn có tộc ước, diễn ca tộc phả…. Sự liên kết
dòng họ trong các làng Việt, một phần có nguồn gốc từ thị tộc nguyên thủy, nhưng
về sau, sự liên kết này còn được chính quyền phong kiến và cả chính quyền thực
dân trong những thập niên đầu thế kỷ XX duy trì, lợi dụng để dễ dàng cai trị
nhân dân. Ví dụ: Luật Gia Long quy định trong họ hàng phải chịu trách nhiệm
quản lý dòng họ, bố mẹ phải chịu tội cả của con cháu; thời Pháp thuộc, chính
quyền thực dân cho lập ra các “Ban tộc biểu” hay “Hội đồng tộc biểu” cũng không
nằm ngoài ý đồ lợi dụng mối quan hệ dòng họ để thống trị nhân dân ta[8].
Sự cố
kết dòng họ có những mặt tích cực như giúp các gia đình tiểu nông khắc phục khó
khăn, trở ngại trong sản xuất, trong đời sống. Bên cạnh đó, quan hệ dòng họ
cũng tạo ra quan hệ gia trưởng và tông tộc chủ nghĩa, có khi bị chính quyền
thống trị quan liêu lợi dụng, hoặc đôi khi quan hệ dòng họ chi phối chính quyền
cơ sở, lũng đoạn quan hệ pháp luật, làm biến đổi quan hệ giai cấp…
Bên
cạnh quan hệ dòng họ, làng xã Việt Nam còn có Giáp. Giáp là một đơn vị nhỏ hơn
làng, chỉ gồm những người nam giới, được tổ chức theo khu vực địa lý (xóm) hoặc
theo dòng họ. Có làng thì một giáp là một họ. Trong Giáp còn phân ra ba lớp
theo lứa tuổi: ti ấu (từ nhỏ đến 18 tuổi), tráng đinh (18-50 hoặc 55, hoặc 60
tùy theo làng) và lão. Tổ chức Giáp có những quy định về ứng xử dựa trên nguyên
tắc coi trọng người cao tuổi. Những người lên lão được ngồi chiếu trên trong
những dịp lễ lạt của làng, được cả làng kính trọng. Nguyên tắc này là truyền
thống lâu đời của dân tộc ta, xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế nông nghiệp
lúa nước, dựa nhiều vào thiên nhiên nên kinh nghiệm sản xuất là yếu tố quan
trọng hàng đầu. Các xã quan nắm dân làng thông qua những người đứng đầu các
Giáp, gồm ông Cai Giáp (câu đương) và các ông Lềnh giúp việc cho Cai Giáp (Lềnh
là đọc trại từ chữ Lệnh). Vì vậy, “Giáp
là khâu trung gian giữa làng và họ, hành chính hóa dòng họ, quản lý dòng họ và
quản lý bằng dòng họ”[9].
Nói
đến quan hệ dòng họ, không thể không nói đến gia đình, tế bào cơ sở quan trọng
của làng, của nước và cũng là đơn vị cơ sở của gia tộc. Trong gia đình Việt
Nam, quan hệ ứng xử giữa cha mẹ, ông bà và con cháu, giữa vợ chồng, giữa anh
chị em với nhau được quy định chặt chẽ thể hiện những nét đẹp văn hóa đạo đức
truyền thống của dân tộc. Đó là tình cảm yêu thương, đùm bọc “trên kính, dưới
nhường’, “con hiền, dâu thảo”, “chị ngã, em nâng”, là quan niệm “Đồng vợ đồng
chồng, tát biển Đông cũng cạn”… Những
truyền thống đó góp phần làm cho gia đình trở thành nền tảng của xã hội, là đơn
vị sản xuất cơ bản của làng xã tiểu nông. Gia đình còn là nền tảng văn hóa, là
nơi cung cấp nhân lực, vật lực cho kinh tế, quốc phòng… Chính vì vậy, từ rất xa
xưa, trong đời sống xã hội Việt Nam đã hình thành trục quan hệ gắn bó giữa Nhà
– Làng – Nước, cơ sở của khối đại đoàn kết quốc gia dân tộc mà hạt nhân là các
gia đình cá thể gồm vài ba thế hệ. Đây là đặc điểm hết sức quan trọng, cần được
nhận thức sâu sắc nhằm phát huy tối đa vai trò tích cực của gia đình trong giai
đoạn phát triển mới của đất nước hiện nay, vì thực tiễn đã chứng minh mọi sự
tác động làm suy yếu gia đình đều dẫn tới những suy yếu của đất nước.
2.2.3. Làng xã Việt Nam truyền thống
là một phức hợp các quan hệ xã hội tạo nên kết cấu chặt làng xã.
Làng
xã Việt Nam truyền thống là một phức hợp các tổ chức, các quan hệ xã hội đan
xen, chồng chéo và chuyển hóa nhau, tạo thêm những mối liên kết chặt chẽ giữa
các gia đình tiểu nông. Ngoài quan hệ cộng đồng làng xã, quan hệ dòng họ, xóm
giáp, hầu hết các làng Việt còn có những quan hệ theo nghề nghiệp, sở thích, tín ngưỡng tôn giáo…
Quan
hệ nghề nghiệp trong làng xã thể hiện qua tổ chức phường, hội thủ công nghiệp
và thương nghiệp nhỏ. Tổ chức phường, hội tồn tại trong làng xã nông nghiệp
xuất phát từ đặc điểm nổi bật của nền kinh tế tiểu nông Việt Nam là sự phân
công lao động không triệt để. Hầu hết các làng xã nông thôn Việt Nam đều tồn
tại đồng thời ba hoạt động kinh tế chính là nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và thương nghiệp. Làng nông nghiệp nào cũng có một số gia đình làm nghề sản
xuất các mặt hàng thủ công nghiệp phục vụ cho đời sống và đều có chợ nông thôn,
có thể một làng hoặc giữa vài ba làng có một chợ. Chợ nông thôn là nơi diễn ra
hoạt động mua bán, trao đổi sản phẩm, tạo nên một vòng khép kín cho nền kinh tế
tự cấp, tự túc làng xã. Thậm chí trong một gia đình làm nông, cũng có người làm
thêm nghề đan lát, nghề gốm hoặc mua bán. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, làng trồng
lúa có thể kết hợp với các hoạt động đánh cá, lâm nghiệp; và hầu hết các làng
trồng lúa đều kết hợp chăn nuôi gia súc, gia cầm, cũng như các nghề thủ công
khác nhằm lợi dụng sức lao động thừa thãi lúc nông nhàn. Như vậy trong một làng
thường có đủ ba ngành sản xuất nông, công, thương nghiệp. Cấu trúc kinh tế này làm
cho làng xã trở thành đơn vị cư trú và đơn vị kinh tế khép kín, khiến cho làng
xã Việt Nam truyền thống có tính ổn định lâu dài, vững chắc mà những biến động
xã hội tác động vào cũng khó làm cho nó thay đổi[10].
Sự
phân công lao động không triệt để như vậy khiến cho cấu trúc xã hội trong làng
xã Việt Nam, ngoài tổ chức dòng họ, xóm giáp, tôn giáo… còn có tổ chức phường,
hội thủ công hoặc mua bán với những quy định chặt chẽ buộc những người cùng
nghề phải tuân thủ, nhằm ổn định sản xuất, chống cạnh tranh, giúp nhau làm ăn
tạo nên tình đoàn kết, gắn bó giữa những người cùng nghề nghiệp. Sự tồn tại tổ
chức phường, hội thủ công hoặc mua bán ngay trong làng xã nông nghiệp là một
trong những nét khác biệt của làng xã truyền thống Việt Nam so với các công xã nông
thôn ở phương Tây. Ở phương Tây, công xã nông thôn là địa bàn cư trú của các
lãnh chúa phong kiến và nông dân, còn thủ công nghiệp và các hoạt động mua bán
chỉ diễn ra ở các công xã thành thị riêng biệt.
Bên cạnh các phường, hội nghề nghiệp, hầu như trong mọi làng
Việt đều có các hội được tổ chức theo giới tính, chức nghiệp, lứa tuổi. Ví dụ
nhiều làng có Hội Tư văn (là tổ chức của các trí thức Nho học), Hội Tư võ hoặc
Hội làng binh (của những người đã từng đi lính và các quan võ về ở trong làng),
Hội Chư Bà, Hội Mục đồng, Hội Lão… Các Hội này cũng có những quy ước về lễ nghi
cúng tế và sinh hoạt, góp phần ràng buộc các thành viên của làng tuân theo
những chuẩn mực đạo đức nhằm bảo đảm sự ổn định của làng.
Như vậy, làng xã Việt Nam được hình thành từ tập hợp các gia
đình tiểu nông, nhưng giữa các gia đình và giữa các cư dân của làng có những
mối liên kết rất đa dạng và đan xen, chồng lên nhau: có tổ chức dòng họ, có
phường nghề, có xóm giáp, có hội hè, đình đám, tôn giáo và gắn với các tổ chức
đó là những tộc ước, phường lệ rất chặt chẽ, khiến mỗi dân làng luôn luôn phải là
thành viên của một hoặc của nhiều cộng đồng, phải tôn trọng những quy ước của
cộng đồng. Chính những quan hệ xã hội này đã tạo nên kết cấu chặt của làng xã
Việt Nam truyền thống.
2.2.4. Thể chế làng xã với chế độ
ruộng công và hương ước khép chặt làng xã Việt Nam truyền thống
Nói
đến làng Việt Nam, không thể không nói đến vấn đề ruộng đất, vấn đề cơ bản của
nông thôn. Chế độ ruộng đất thời phong kiến với chế độ quân điền quy định ruộng
đất công là sở hữu tối cao của nhà nước, nhưng làng xã có quyền chiếm hữu và
chia lại cho các dân đinh theo định kỳ. Chế
độ quân điền quy định chỉ dân “chính cư” mới được chia lại ruộng đất. Ngoài ra,
dân chính cư được hưởng mọi quyền lợi, còn dân ngụ cư không được hưởng quyền
lợi gì mà còn bị khinh rẽ. Sự phân biệt đối xử này cũng là một phương tiện để
chính quyền phong kiến quản lý làng xã. Chế
độ ruộng công làng xã sự phân biệt đối xử gay gắt giữa dân chính cư và dân ngụ
cư đã cột chặt người nông dân với làng quê. Họ không muốn và không thể rời
làng, vì họ không có đất dung thân ở ngoài làng của họ. Chế độ quân điền góp phần làm cho làng xã cổ
truyền Việt Nam khép chặt, củng cố thêm tình cảm làng xóm, lối sống cộng đồng.
Việc
làng xã nắm quyền chiếm hữu và phân phối ruộng đất công cho dân khiến cho làng
xã có vai trò trực tiếp chi phối nông dân, tạo nên tính tự trị, tự quản làng xã.
Tính tự trị làng xã thể hiện qua hương ước và được củng cố bằng hương ước.
Hương
ước là những lệ làng, phản ánh sự tự nguyện lệ thuộc lẫn nhau của các thành
viên trong làng xã với những quy định chặt chẽ, cụ thể về mọi vấn đề quan hệ xã
hội, văn hóa… Hương ước phản ánh những
đặc thù văn hóa, xã hội của từng làng xã. Xuất phát từ chỗ mỗi làng Việt thường
có những diện mạo, sắc thái riêng tuỳ thuộc vào đặc điểm dòng họ, nghề nghiệp,
tục lệ thờ cúng, sinh hoạt… cho nên trong bộ luật Hồng Đức, lần đầu tiên Nhà
nước phong kiến cho phép các làng nếu có những tục lệ riêng có thể lập hương
ước thành văn trên cơ sở có sự kiểm tra, phê duyệt của chính quyền địa phương.
Đây là một sáng kiến của nhà Lê trong tổ chức quản lý hành chính, vì chính
thông qua việc cho phép lập hương ước (có sự phê duyệt của chính quyền), Nhà
nước trung ương vừa tôn trọng nhu cầu tự trị vốn đã trở thành đặc tính của làng
xã, đồng thời, vẫn nắm được quyền quản lý làng xã chứ không phải phó mặc hoặc
bất lực trước các tập tục của các làng.
Hương
ước là một trong những yếu tố hết sức quan trọng tạo nên kết cấu chặt của làng
xã Việt Nam truyền thống. Với Hương ước, mỗi làng Việt cổ truyền có những sắc
thái, phong tục, tập quán riêng biệt, không lẫn với các làng khác. Nhờ hương
ước và tính tự trị làng xã mà trong thời kỳ Bắc thuộc, các làng xã cổ truyền
Việt Nam giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc trước âm mưu đồng hóa của các thế lực
phong kiến Hán, Đường.
Làng
xã vừa là đơn vị cư trú tự nhiên, vừa là đơn vị hành chính do chính quyền trung
ương thiết lập, nên làng xã vừa mang tính phụ thuộc nhà nước, vừa có tính tự
trị tương đối. Với hương ước, tính tự trị làng xã tồn tại dai dẳng, ngay cả khi
ruộng công không còn.
Tính
tự trị và kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống còn được củng cố qua cách
bố trí các điểm quần cư cụm chặt từng làng, có rào làng, có lũy tre xanh bao
bọc, có cổng làng… Đây là hình thái điển hình của các làng Việt ở Bắc bộ và Bắc
Trung bộ. Còn từ Trung Trung bộ trở vào đồng bằng sông Cửu Long, hình thái bố
trí làng xã lỏng lẻo dần, mang tính mở chứ không khép chặt như làng Miền Bắc.
Cách bố trí làng xã trải dài theo sông rạch, nhà cửa rải rác, không cụm chặt
của làng Nam bộ là hình thái bố trí thích ứng với tự nhiên do yêu cầu của điều
kiện đất đai, sinh thái và yêu cầu khẩn hoang của vùng đất Nam bộ. Đất đai ở
đây rộng lớn, làng mở cho phép dân nhập cư dễ dàng, bổ sung nhân lực cho công
cuộc khai khẩn đất hoang. Vả lại, Nam bộ là vùng đất phù sa mới với bưng biền,
đầm lầy cần đào kênh xả phèn, kênh lưu thông vận chuyển thay cho đường bộ, nhà
ở phân bổ trải dài theo sông rạch nhằm tạo thuận lợi cho sinh hoạt đi lại và
vận chuyển nông sản của người dân.
2.2.5. Văn hóa làng xã Việt Nam vừa là biểu hiện, vừa tạo nên kết cấu chặt làng
xã Việt Nam truyền thống.
Văn
hóa làng Việt thể hiện những sắc thái văn hóa độc đáo của mỗi làng xã, góp phần
hợp thành bản sắc văn hóa chung, vừa thống nhất vừa phong phú, đa dạng của văn
hóa vùng, miền, dân tộc. Văn hóa làng là cái hồn dân tộc, là văn hóa của nền
văn minh nông nghiệp lâu đời của người Việt.
Nét
đặc sắc nhất của văn hóa làng là tinh thần cộng đồng, tính cố kết làng xã với
những mặt tích cực cần được phát huy như tinh thần “ tương thân, tương ái”,
“tối lửa tắt đèn có nhau”; là tinh thần trọng đạo đức, lễ nghĩa trong quan hệ
gia đình, họ tộc, làng xóm; là ý thức trách nhiệm rất cao của cá nhân đối với
cộng đồng khiến cho các thành viên của làng luôn phấn đấu để làng xã của mình
hay dòng mình không bị mất mặt…
Mặc dù
làng Việt có tính khép kín, tính tự trị nhưng bên cạnh đó, trong tiến trình lịch
sử dân tộc, các mối quan hệ cộng đồng liên làng, siêu làng[11]
cũng hình thành và tồn tại đồng thời với cộng đồng làng, hình thành nên tình
cảm quốc gia dân tộc, hình thành trục quan hệ cơ bản Nhà – Làng - Nước thống nhất, hình thành ý thức độc lập tự
chủ, tình yêu Tổ quốc, tinh thần xả thân vì nước, quan niệm việc nước trên việc
nhà… Những tình cảm, những giá trị văn hóa đó trở thành tâm hồn, tình cảm tự
nhiên, máu thịt của người Việt và là sức mạnh của người Việt trong suốt tiến
trình lịch sử dân tộc.
Như
vậy, làng xã Việt Nam là một cộng đồng xã hội có “kết cấu chặt”. Cơ sở kinh tế
- xã hội tạo nên kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống là sự liên kết
dòng họ, xóm (giáp), mối quan hệ nghề nghiệp, tín ngưỡng tôn giáo, các cơ sở
chính trị, văn hóa… thể hiện những nét đặc thù của dân tộc Việt Nam. Hay nói
khác hơn, kết cấu chặt làng xã Việt Nam được hình thành từ những nguyên tắc tổ
chức nông thôn theo nhiều kiểu cộng đồng nằm trong cộng đồng làng xã. Các tổ
chức, các mối quan hệ này đan xen nhau làm cho mối quan hệ giữa các gia đình
tiểu nông trong làng xã thêm chặt chẽ, gắn với Hương ước, lệ làng, tộc ước, quy
định của các phường, hội, những quy tắc văn hóa, đạo đức của dân tộc…
Kết
cấu chặt của làng xã Việt Nam là một đặc điểm nổi bật trong kết cấu xã hội làng
Việt truyền thống, cần được nghiên cứu thấu đáo nhằm khai thác, vận dụng những
mặt tích cực cũng như loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong quá trình xây dựng
nông thôn mới hiện nay.
3. LIÊN HỆ VỚI LÀNG XÃ VIỆT NAM HIỆN NAY
Hiện nay,
đất nước ta đang trong quá trình đấy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu trên, Đảng ta xác
định “công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; và để
giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trước hết, “phải khơi dậy
tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã
hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đàm
đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông
thôn mới, nâng cao đời sống nông dân”[12].
Cụ thể hóa chủ trương trên, ngày 04 tháng 6 năm 2010, Chính phủ ra Quyết định số
800/QĐ-Ttg về “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010-2020” . Để thực hiện tốt các mục tiêu trên, trước
hết cần đánh giá thực trạng làng xã Việt Nam hiện nay, từ đó vận dụng, phát huy
những mặt tích cực trong kết cấu xã hội của làng xã truyền thống, nhằm xây dựng
làng xã nông thôn mới văn minh, hiện đại.
3.1.Đánh giá tình hình làng xã nông
thôn trong thời gian qua
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, bộ mặt của nông
thôn Việt Nam trong những năm qua đã có những chuyển biến tích cực như kết cấu
hạ tầng kinh tế ở làng xã được củng cố và nâng cao chất lượng, nhiều làng xã đã
xuất hiện những mô hình nông dân sản xuất giỏi, đời sống nông dân ngày càng
được cải thiện, các giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa làng xã được khôi
phục và phát triển… Bên cạnh đó, thực trạng nông thôn cũng đang diễn ra những
vấn đề phức tạp, nhiều nơi có xu hướng
khôi phục các hình thức lễ hội, xây dựng nhà thờ họ, xây dựng mồ mả dòng tộc
một cách quá đáng, nặng tính hình thức… Những hiện tượng này có mặt tích cực là
góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị của truyền thống dân tộc trong quá
trình xây dựng nông thôn mới, chống lại sự xa rời bản sắc văn hóa dân tộc, mặt
trái của cơ chế thị trường và quá trình hội nhập. Tuy nhiên, nó cũng dẫn tới
những biểu hiện tiêu cực: khôi phục cả những yếu tố tàn dư lạc hậu của làng xã
truyền thống như tư tưởng cục bộ, địa
phương chủ nghĩa, chỉ biết tới họ mình, làng mình; bệnh phô trương hình thức,
đua nhau xây dựng mồ mả dòng tộc, nhà thờ họ, xây dựng kết cấu hạ tầng làng xã,
từ đó động viên sức dân quá mức gây khó khăn cho cuộc sống của người dân và
những bất bình của nhân dân đối với các chương trình, chính sách phát triển nông thôn của nhà nước.
Hương ước, tính tự trị, tự quản làng xã là tập quán lâu đời
của người Việt và đã từng được chính quyền phong kiến vận dụng, biến thành một
biện pháp quản lý xã hội rất tích cực. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta
đã nhiều lần đưa ra những định hướng nhằm phát huy các giá trị tích cực của
hương ước, xây dựng làng xã tự quản, dân chủ. Nghị quyết hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá VII) ngày 10/6/1993 về Tiếp
tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn đã đề ra nhiệm vụ: “Phát huy
những truyền thống văn hoá tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, bài trừ hủ tục, mê tín
dị đoan, tệ nạn xã hội, phát huy tình làng nghĩa xóm, khuyến khích xây dựng và
thực hiện các hương ước, quy ước về nếp sống văn minh thôn, xã”; Nghị quyết Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã nêu : “Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn
hoá, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp
sống văn minh...”; Báo cáo
chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII: “Thực hiện tốt cơ chế làm
chủ của nhân dân, làm chủ thông qua đại diện là các cơ quan dân cử và các đoàn
thể, làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng hương ước, quy
ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp nhà nước”… Bên cạnh đó nhà nước cũng ra nhiều Chỉ thị, thông tư
hướng dẫn việc thực hiện hương ước, quy chế tự quản làng xã[13],
nhờ vậy, việc xây dựng hương ước, xây dựng
quy chế tự quản đã thực hiện phổ biến, trở thành một trong những nội
dung của phong trào xây dựng nông thôn mới. Thực tế cho thấy một số làng xã có
phong trào tự quản tốt đã khơi dậy được tình làng nghĩa xóm, khơi dậy ý thức
trách nhiệm của thành viên đối với gia đình, dòng họ, làng xóm, chia sẻ buồn
vui, điều hay lẽ phải, qua đó loại bỏ được những sai trái của nhiều cá nhân và
gia đình, giải quyết có hiệu quả nhiều vụ việc phức tạp xảy ra, góp phần giữ
vững an ninh trật tự ở nông thôn hiện nay.
Về cơ cấu kinh tế làng xã, cho đến nay, tình hình sản xuất ở
nông thôn Việt Nam nhìn chung vẫn phổ biến là sản xuất nhỏ, đất đai bị chia
manh mún không thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản
xuất kinh tế hàng hóa lớn. Bên cạnh đó, còn có một số vấn đề nghịch lý nảy sinh
xung quanh vấn đề ruộng đất nông thôn. Người nông dân ngày nay không bị vấn đề
ruộng đất cột chặt với làng, trái lại họ không yên tâm sản xuất để làm giàu
trên mảnh ruộng của mình, vì trong thời buổi kinh tế thị trường, sản xuất nông
nghiệp nhỏ trở nên quá bấp bênh, thu nhập không bảo đảm cho cuộc sống của họ, cùng
với cơn lốc đô thị hóa… khiến nhiều nông dân bỏ làng quê ra thành thị mong tìm kiếm
một mức thu nhập khá hơn. Tình hình này dẫn đến nhiều làng xã nông thôn Bắc bộ
đất bị bỏ hoang, trong khi nếu tính bình quân diện tích đất sản xuất trên đầu
người, thì quỹ đất nước ta còn rất thiếu (chỉ vài trăm mét vuông/ người). Đúng,
nông thôn là nơi cung cấp nhân lực cho các đô thị trong quá trình công nghiệp
hóa, nhưng không vì thế mà làm cho nông thôn trở thành nơi chỉ còn lại những
ông bà già và con trẻ, vì lực lượng lao động ưu tú nhất (thanh niên, người trẻ)
không còn muốn ở làng. Nhưng muốn cho người dân gắn bó với làng thì vấn đề quan
trọng trước tiên là làng quê phải bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho
họ, làng quê phải là chốn bình yên chứ không phải là những nơi chịu đựng sự ô
nhiễm môi trường từ những khu đô thị và những nhà máy mọc lên một cách thiếu
kiểm soát như tình hình ở nhiều vùng nông thôn hiện nay mà báo chí thường nói
tới; thậm chí nhiều làng xã nông thôn hiện nay còn phải chịu đựng những bất
công do tình trạng một bộ phận cán bộ cơ sở không đủ trình độ và thiếu đạo đức,
không quan tâm giải quyết những bức xúc của dân và làm lợi cho dân, mà chỉ tìm
cách lợi dụng cơ chế để kiếm lợi cho mình.
Đây là những vấn đề cần giải quyết trong quá trình xây dựng nông thôn
mới hiện nay.
3.2. Phát huy những mặt tích cực
trong kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống vào xây dựng nông thôn mới hiện nay
Qua nghiên cứu kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền
thống, ta có thể vận dụng những mặt tích cực liên quan tới kết cấu làng xã
truyền thống để góp phần xây dựng nông thôn Việt Nam hiện đại, văn minh phù hợp
với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ nhất, trong quy hoạch nông thôn mới, cần
nghiên cứu kế thừa cách tổ chức, phân bố làng xóm truyền thống theo vùng miền,
ví dụ kiểu làng co cụm ở Miền Bắc hay kiểu làng trải theo sông rạch, trục giao
thông của Miền Nam, tránh phá vỡ cảnh quan nông thôn truyền thống, tránh biến
nông thôn thành những đô thị nửa vời. Tuy nhiên, để hiện đại hóa nông thôn,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân, cần quy hoạch các khu sản xuất công
nghiệp nông thôn, làng nghề, khu vực chăn nuôi xa xóm làng cư trú nhằm bảo đảm
môi trường sống sạch đẹp cho làng xã.
Thứ hai, Hương ước, lệ làng vừa có mặt tích
cực như thể hiện tính dân chủ và đề cao trách nhiệm tự quản của làng xã, vừa có
mặt tiêu cực là tâm lý “phép vua thua lệ làng”. Tâm lý này ít nhiều còn tồn tại
ở hệ thống chính trị cơ sở nông thôn là một trong những yếu tố cản trở tiến
trình xây dựng và hoàn thiện một nền hành chính công bằng. bình đẳng, tiến bộ, văn
minh, dân chủ, pháp quyền; cản trở việc thực hiện nguyên tắc “sống và làm việc
theo pháp luật”. Vận dụng và phát huy yếu tố tích cực, khắc phục hạn chế của của
hương ước, lệ làng trong truyền thống, các tổ tự quản và chính quyền cơ sở làng
xã có thể tổ chức cho nhân dân bàn bạc, thảo luận để xây dựng hương ước mới,
vừa kế thừa những quy định còn phù hợp trong hương ước và trong văn hóa làng xã
cũ, đồng thời đưa thêm những nội dung mới về nếp sống văn minh trong những thủ
tục cưới xin, ma chay, lễ hội, về xây dựng gia đình văn hoá, làng xóm văn hóa… Hương
ước, quy chế tự quản sau khi nhân dân thông qua, cần được chính quyền địa
phương phê duyệt nhằm bảo đảm các quy định của làng xã không trái với pháp luật. Quy chế cần phát cho các
hộ dân để các gia đình, các cá nhân có trách nhiệm thực hiện và dần dần trở
thành ý thức tự giác.
Thứ ba, xây dựng nông thôn mới cần giải quyết
tốt vấn đề kinh tế nông thôn nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nông dân. Để tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, cần tập trung đất
đai, thực hiện sản xuất lớn. Chính sách dồn điền, đổi thửa được thực hiện trong
thời gian qua là một cách làm hay, nhưng cần có những biện pháp cụ thể, nhất là
cần xác định giá cả đền bù khi chuyển đổi phù hợp với giá cả thị trường nhằm bảo đảm công bằng trong chuyển
đổi. Nhà nước cần có chính sách rõ ràng hơn trong quy định thời hạn sử dụng đất
nông nghiệp nhằm khuyến khích những người có điều kiện thành lập các trang trại
lớn, đưa sản xuất nông nghiệp tiến lên hiện đại.
Thứ tư, nhà nước cần có những chính sách
khuyến khích các nhà đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chế biến nông sản tại
các vùng nông thôn xa xôi, vừa tạo điều kiện cho nông sản không bị tư thương ép
giá, vừa tạo việc làm tại chỗ, thu hút một bộ phận đông đảo sinh viên đại học,
cao đẳng sau khi ra trường trở lại tham gia xây dựng nông thôn mới.
Thứ năm, tính liên kết chặt cộng đồng làng xã
bên cạnh những mặt tích cực như dễ huy động sức mạnh của dân làng cùng giải
quyết những vấn đề chung của làng xã, còn có mặt hạn chế như tính cục bộ, địa
phương chủ nghĩa, có thể dẫn đến mâu thuẫn giữa các bộ phận, sự không thống
nhất giữa các làng xã với nhau và giữa làng với nước. Để tránh tình trạng này,
cần củng cố và phát triển văn hóa làng xã, phát huy tính cộng đồng làng xã, xây
dựng ý thức đặt lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, xây dựng tình làng
nghĩa xóm, giúp đỡ nhau trong sản xuất và trong cuộc sống, giữ gìn đạo đức
truyền thống trong gia đình, tôn ti trật tự trong họ hàng, làng xóm. Cần phát
huy vai trò của gia đình truyền thống trong việc giáo dục thế hệ trẻ về tình
làng nghĩa xóm, ý thức cộng đồng, lối sống đạo đức trong sạch, lành mạnh, không
coi tiền tài, vật chất là trên hết.
KẾT LUẬN
Làng xã Việt Nam là một cộng đồng gồm nhiều gia đình sản xuất
tiểu nông liên kết chặt chẽ với nhau qua hàng loạt mối quan hệ ràng buộc, bao
gồm quan hệ dòng tộc, xóm giáp, phường hộ, tìn ngưỡng tôn giáo, hội hè…Các mối
quan hệ trên được vật chất hóa thành
những tổ chức cụ thể với những sợi dây ràng buộc chặt chẽ là Hương ước, tộc
ước, phường lệ… Những ràng buộc này tạo nên ý thức cộng đồng, lối sống cộng
đồng là một trong những đặc trưng của văn hóa Việt Nam, đồng thời tạo nên kết
cấu chặt làng xã Việt nam truyền thống.
Kết cấu chặt của làng xã Việt Nam truyền thống có những mặt
tích cực mà ngày nay ta cần phát huy trong quá trình xây dựng nông thôn mới, đó
là lối sống cộng đồng, đoàn kết nhau xây dựng làng xã, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, là tình cảm chân chất, lối sống đạo đức trong sạch, giản dị… Trong xây
dựng nông thôn mới, cần phát huy các giá trị tích cực của làng xã truyền thống,
đồng thời chú trọng khắc phục, loại bỏ những tác động tiêu cực có thể cản trở
tiến trình cngho, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
______________
1. Bùi Quang Dũng (2010), Xã
hội học nông thôn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam
văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin.
3. Đặng Đức Siêu (2002), Hành
trình văn hóa Việt Nam (giản yếu), Nxb Lao Động, HN.
4. Đỗ Danh Huấn (2010), Làng Việt
– đối tượng nghiên cứu của Khu vực học, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học
XH&NV số 26.
5. Hà Văn Tấn (2005), Đến với
lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn.
6. Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống
chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb CTQG, HN, tr 37.
7. Lê Văn Chưởng (1996), Cơ
sở văn hóa Việt Nam, Trường Đại học khoa học Tự nhiên Tp.HCM.
8. Lê Minh Thông, Luật nước và hương ước, lệ làng trong đời
sống pháp lý của các cộng đồng làng xã Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 3 năm 2008 của trường
Đại học Quốc gia Hà Nội
9. Nguyễn Minh Tuấn, Nhận diện xã
hội làng xã xưa và nay, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, số 11 và số 12 năm
2004
10. Phan Đại Doãn (2010),
Làng xã Việt Nam-Một số vấn đề
kinh tế văn hóa xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia.
11. Phan Đại Doãn (1992), Làng Việt Nam, một số vấn đề kinh
tế xã hội, Nxb KHXH, Nxb Mũi Cà Mau.
12. Thái Kim Đỉnh (chủ biên – 2000), Làng cổ Hà Tĩnh, tập I, Sở Văn hóa Thông tin và Hội LHVHNT Hà Tĩnh
xb.
13. Trần Thị Thu Lương (1993), Luận án Phó tiến sĩ Khoa học
Lịch sử: Bước đầu tìm hiểu chế độ sở hữu
ruộng đất và canh tác ruộng đất ở làng Việt Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX qua địa
bạ.
14. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo Dục.
15. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb GD.
16. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1992), Từ điển tiếng
Việt, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ,
HN.
[1]
Trần Từ: “Tìm hiểu làng Việt cổ truyền. Làng xã Hương Sơn, ghi chép dân tộc
học”. Tạp chí NCLS, 1975, số 165, tr 35 (dẫn theo Hoàng Chí Bảo, “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện
nay”. Nxb CTQG, HN _ 2004, tr 37.
[2]
Trương Hữu Quýnh, Đnh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam
toàn tập, Nxb GD, tr 43.
[3]
Viện KHXHVN (1992), Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, HN, tr 1117.
[4]
Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb.GD, tr 94.
[5]
Phan Đại Doãn (2010), Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội,
Nxb CTQG, tr 88.
[6]Pierre
Gourou là chuyên gia về nông thôn Đông Dương , đặc biệt là ở đồng bằng Bắc Bộ.
[7]
Dẫn theo Phan Đại Doãn (2010), Làng xã
Việt Nam. Một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, Nxb CTQG, tr 88.
[9]
Phan Đại Doãn (2010), Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội,
Nxb CTQH, HN, tr 92.
[10]
Phan Đại Doãn, sđd, tr 95.
[11]
Mối quan hệ liên làng, siêu làng là
những mối liên hệ ngài cấu trúc làng xã, nhưng nói đến văn hóa dân tộc thì
không thể không nói tới các quan hệ cộng đồng này. Mối quan hệ liên làng là
quan hệ giữa làng này với làng khác; còn quan hệ siêu làng là quan hệ giữa làng
hoặc các tổ chức của làng với những cộng đồng lớn hơn làng (theo Hà Văn Tấn,
Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, tr 33-34).
[12] Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn
[13] Ngày 19/6/1998 Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 24 về việc xây
dựng và thực hiện hương ước, quy ước làng bản thôn, ấp, cụm dân cư. Ngày 31/ 3/2000, Bộ Tư pháp, Bộ VH-TT, Ban Thường trực ỦBTWMTTQVN ra Thông tư liên tịch hướng dẫn việc xây dựng và thực
hiện hương ước, quy ước của làng bản thôn, ấp, cụm dân cư.