Cứ mỗi lần về thăm xóm cũ, xóm Trà Kha
A, phường 8, thành phố Bạc Liêu, tôi lại bâng khuâng hoài niệm về một nghề thủ
công đã từng tồn tại và phát triển mạnh ở nơi này suốt hai thập kỷ (1954 -1975):
nghề làm lu xi măng.
Lu
là một vật dụng quen thuộc của người dân Việt Nam, thường dùng để đựng nước hoặc
muối, gạo… Ở miền tây Nam bộ, trong những năm 50-70 của thế kỷ XX, ngoài loại
lu sành làm bằng đất nung do các làng gốm miệt Đồng Nai, Bình Dương sản xuất,
người dân còn biết đến và sử dụng ngày càng phổ biến một loại lu làm bằng xi măng
pha cát. Những năm 50, nghề làm lu xi măng bắt đầu hình thành ở Trà Kha - Trà
Khứa và phát triển mãi đến năm 1975, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho
nhiều người dân trong xóm, đồng thời đáp ứng nhiều nhu cầu khác trong đời sống của
cư dân vùng Cà Mau - Bạc Liêu quanh năm nước mặn.
Tôi đi dọc bờ con kinh xáng Bạc Liêu -
Cà Mau, đoạn từ bến đò Trà Kha (nay đã có cầu treo) xuống khu vực nhà máy Bạc
Liêu 1, cảnh vật đã nhiều đổi thay. Xưa kia trên bến sông này là một vùng thuyền
ghe tấp nập, ngoài ghe xuồng mua bán và xay xát lúa gạo của nhiều nhà máy lớn,
nhỏ còn có các trại sản xuất lu xi măng của ông Lý Văn Năm (tên thường gọi là ông
Năm Cư) và ông Lý Văn Hy (tên thường gọi là ông Tư Hý).
Tìm hiểu về nghề làm lu xi măng ở Trà
Kha, tôi được chị Châu (con của chủ lò lu Năm Cư trước đây) cho biết, từ những
năm 50, có hai người thợ từ Nam Vang (Cam- pu - chia) đến thuê đất, lập lò sản
xuất lu xi măng tại xóm Hàng Me, bên bờ kinh xáng Bạc Liêu - Vĩnh Châu, nay thuộc
phường 5. Nghề này được một số người dân xóm Trà Kha, Trà Khứa học hỏi. Tại Trà
Khứa (phường 8, Bạc Liêu), đầu những năm 50, làm lu xi măng trở thành nghề thủ
công của nhiều hộ gia đình. Mỗi nhà tự làm 3- 4 chiếc/ngày. Ông Năm Cư vốn người
xóm Hàng Me tản cư vào vùng nông thôn giải phóng Phước Long, rồi Vĩnh Hưng … Sau
hiệp định Genève, ông Năm về sống tại Trà Kha A. Để tìm kế sinh nhai, ông mua
lu của những người thợ xóm Hàng Me và Trà Khứa, dùng ghe lườn chở đi rao bán trên
các sông, rạch ở Xóm Lung (Giá Rai), Chủ Chí (Phước Long), Gành Hào… Thuở ấy,
lu xi măng chưa phổ biến, ông Năm phải giới thiệu, quảng bá để người mua dùng
thử. Dần dần, người dân Bạc Liêu thấy rõ ưu điểm của loại lu bằng chất liệu mới
này: rẻ hơn, bền hơn lu sành vì khi chẳng may bị bể, bị nứt người ta có thể vá
lại không mấy khó khăn. Thực tế, những chiếc lu còn lại ở nhà ông Năm Cư và nhà
Ông Sơn Lực, được làm từ hơn 40 năm trước,
nhìn rất cũ kỹ nhưng vẫn còn dùng tốt.
Năm 1957, thấy lu xi- măng được thị trường
chấp nhận, Ông Năm Cư tập hợp thợ ở Trà Kha A thành lập lò lu; đồng thời, tập hợp
những nông dân khá giả, nhà có ghe vùng Gành Hào, Xóm Lung, Chủ Chí, Cà Mau
thành những thương lái chuyên mua lu chở đi bán. Khi đế quốc Mỹ ngày càng tăng
cường bom, pháo trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, lu xi măng được người dân nông
thôn và lực lượng cách mạng vùng bán đảo Cà Mau quanh năm sình lầy, ngập mặn sử
dụng một cách sáng tạo phục vụ nhu cầu kháng chiến: lu xi măng được chôn trong
lòng đất, đậy nắp, ngụy trang trên mặt làm hố tránh bom, pháo; làm kho chứa
lương thực, vũ khí, đạn dược… Nắm bắt nhu cầu xã hội, ông Năm Cư và các thợ lu xóm
Trà Kha sáng tạo ra những mẫu mã mới với kích thước lớn hơn, gọi là lu hố (lu hố
có dung tích 480 lít; lu mái đầm dùng đựng nước có dung tích 240 lít…). Sách “Lịch
sử truyền thống Trung đoàn 962”[1]
ghi: “Công việc xây dựng kho tàng là vấn đề rất phức tạp vì trong vùng ngập nước
mặn quanh năm, phương tiện đi lại chỉ bằng xuồng, ẩm ướt, mối, mọt…Vật liệu làm
kho thông thường là các cây đước, mắm, vẹt, già…mái được lợp bằng lá dừa nước.
Cũng có khi là hàng trăm cái mái (lu) xi măng chôn ven các con kênh. Mỗi kho chứa
đựng từ 5 đến 20 tấn”[2].
Lò lu của ông Năm Cư lúc phát triển nhất có bốn trại sản xuất: một trại tại vườn
nhà ông trên con rạch Trà Kha-Trà Khứa (số B.07/82, Trà Kha A, phường 8), hai trại
khác nằm bên bờ kinh xáng Bạc Liêu - Cà Mau, đoạn từ bến đò Trà Kha xuống gần
nhà máy Bạc Liêu 1 ngày nay, một trại ở xóm Hãng Dầu, trên bờ kinh xáng Bạc
Liêu -Vĩnh Châu, gần cầu Tôn Đức Thắng ngày nay. Những năm 60, ông Năm Cư còn
đưa thợ qua Rạch Giá lập cơ sở sản xuất gần chợ Rạch Sỏi, kịp thời cung ứng lu cho
vùng U Minh Thượng. Trước nhu cầu lu xi măng ngày càng lớn, giữa cuối thập niên
60, hình thành thêm lò lu của ông Lý Văn Hy - gần chùa Cao Đài phường 8, nằm
sát cạnh trại chính của Ông Năm Cư (trên đất thuê của ông Trần Văn Đống). Về thợ,
riêng các trại của ông Năm Cư giai đoạn phát triển nhất thường xuyên có khoảng
10 thợ chính. Về phân phối, hàng chục thương lái dùng ghe lườn đóng thêm be hoặc
ghe cà dom chở lu tỏa đi khắp các sông rạch của hai tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, thọc
sâu vào các vùng nông thôn giải phóng, vùng tranh chấp …
Để hiểu thêm về nghề làm lu xi măng, tôi
đến thăm gia đình ông Sơn Lực, một trong những thợ lành nghề của ông Năm Cư trước
đây, hiện còn đang sống tại Trà Kha A (bên cạnh nhà ông Năm Cư). Theo ông Sơn Lực,
mặc dù có khuôn, nhưng để làm ra những chiếc lu đẹp, người thợ cần có sự khéo
tay, lòng yêu nghề, đức tính cẩn thận, không làm dối vì chỉ cần trong cát còn lẫn
sỏi hoặc rác sẽ làm cho chiếc lu dễ bị rò rĩ trong quá trình sử dụng. Ngoài ra, các thợ lu ở Trà Kha ngày ấy thường
có lối sống chuẩn mực, vì nếu chiều hôm trước mà “nhậu nhẹt” thì hôm sau không
thể dậy sớm và không giữ được sự uyển chuyển của đôi bàn tay. Có lẽ nhờ vậy mà ông
Sơn Lực nay tuy đã lên tuổi 77, vẫn khỏe mạnh và hoàn toàn minh mẫn. Người thợ
già trầm ngâm nhớ về cái nghề đã đi cùng ông suốt thời trai trẻ cho đến tuổi
trung niên. Với nghề lu, ông và các thợ lu ở Trà Kha luôn dậy sớm để bắt đầu lao
động từ 4 - 5 giờ sáng. Người thợ chính và một thợ phụ, thường là vợ hoặc con,
em của thợ chính, cần mẫn làm việc đến khoảng 13 giờ chiều, làm được 8 đến 10
chiếc lu.
Về cách làm lu, theo ông Sơn Lực, buổi đầu,
ông và nhiều người thợ khác tự làm lu thông qua học hỏi các thợ xóm Hàng Me và
Trà Khứa, kết hợp với sự khéo tay chứ chưa có khuôn. Khi lập lò lu, được ông
Năm Cư góp ý và với kinh nghiệm của thợ, họ làm ra bộ khuôn chuẩn cho các mẫu
mã. Trước hết, họ đóng bộ rập bằng thiếc rồi đổ hồ đúc ra nhiều bộ khuôn bằng
xi măng. Một bộ khuôn lu gồm 30 đến 40 mảnh khuôn có kích thước và độ cong, độ
nghiêng khác nhau. Mỗi mảnh khuôn có đường cong dài khoảng 4 - 5 tấc, cao 1 tấc,
dầy 2 phân rưỡi, sao cho 4 mảnh ghép hở tạo
thành một vòng tròn; lần lượt xếp các tầng theo số thứ tự của bộ khuôn sẽ thành
hình một chiếc lu. Đầu tiên, người thợ trộn hồ xi măng với cát đã sàng sạch
theo tỉ lệ 1- 4. Họ trải giấy bao xi măng lên mặt nền phẳng, đổ phần đế (tức đáy
lu) có hình tròn theo đúng kích cỡ từng loại lu. Thông thường phần đế được làm
từ chiều hôm trước, hôm sau xi măng đã hơi cứng, mới xếp khuôn lên mặt đáy thành
hình chiếc lu, đặt 1 mảnh ván tròn lên miệng khuôn lu, kế đó dùng bùn nhão trét
quanh khuôn dày khoảng hơn 1phân, dùng tay quay bằng gỗ tạo hình cho lu tròn đẹp,
sau đó, dán vải thô bên ngoài lớp bùn dọc từ miệng lu xuống tới đáy. Kế đó là
công đoạn trét hồ ngoài lớp vải. Tiếp theo, dùng hồ dầu (xi măng pha nước) chà
láng, kết hợp đánh bóng bằng phim chiếu bóng cũ. Việc đánh bóng bằng phim nhựa
cũng là sáng tạo của ông Năm Cư và nhóm thợ Trà Kha - Trà Khứa, vì trước đó, những
người thợ xóm Hàng Me chỉ chà láng bằng lá chuối. Để hoàn tất, người thợ dùng một
công cụ bằng thiếc đắp phần vành miệng lu, nắn 4 chiếc mũi bằng xi măng trang
trí xung quanh thân lu cho đẹp. Sáng hôm sau, người thợ cẩn thận gỡ khuôn xi
măng khỏi chiếc lu, kéo những băng vải để lấy bùn ra, gia cố đáy lu rồi quét
lòng lu bằng hồ dầu, sau cùng trét một lớp hồ bên ngoài đáy lu làm chân đế là
hoàn tất. Theo sự phân công, thợ phụ sẽ làm những công đoạn dễ như quét lòng
lu, gia cố đáy lu, xách nước, xách hồ… Các cặp thợ chính - phụ làm việc trong từng
lán riêng, mỗi lán có đủ công cụ gồm 10 bộ khuôn lu, bay các cỡ, vải thô, phim,
dụng cụ gạt hồ thiết kế riêng cho làm lu, chổi rơm để quét lòng lu, tay quay… Thợ
lu ở Trà Kha có số lượng khá đông, trong đó, thợ lành nghề có thể kể là ông Sơn
Lực, ông Cục, ông Soi, ông Nhẹo, ông Ẩn, ông Suôl, ông Sươl và gia đình… Trong
các lò lu ở Trà Kha, chủ - thợ nương nhau mà sống, chủ lò cũng không giàu có gì
vì thường xuyên vay vốn, lại còn luôn bị các tiệm buôn xi măng đầu cơ, tăng giá
hàng ngày do lúc đó nguyên liệu này còn rất khan hiếm.
Hầu hết các thợ lu ở Trà Kha đồng thời
là nông dân. Sau buổi đứng trưa, làm lu xong họ vẫn tranh thủ ra đồng nhổ cỏ,
bón phân, cấy, gặt… Thời đó, Bạc Liêu chưa có hệ thống đập ngăn mặn và kinh dẫn
nước ngọt nội đồng như hiện nay, với tay nghề và đức tính cần cù, chịu khó, những
nông dân này có thêm thu nhập, không phải chịu cảnh nông nhàn khi mỗi năm chỉ
làm được một vụ lúa nước. Bên cạnh đó, chiếc lu xi măng không chỉ là vật dụng để
chứa nước sinh hoạt cho người dân vùng nước mặn mà còn thiết thực phục vụ nhu cầu
kháng chiến của lực lượng cách mạng các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang. Khi miền
Nam hoàn toàn giải phóng, nhu cầu dùng lu hố tránh bom không còn, nhu cầu về lu
chứa nước không nhiều lắm nên cả hai lò lu ở Trà Kha A đều ngừng sản xuất. Dù vậy,
có một người thợ trẻ (anh Danh), vẫn tự mình thỉnh thoảng làm vài ba chiếc lu theo
sự đặt hàng của hàng xóm. Nhưng vài năm gần đây, người thợ này cũng đã qua đời.
Nghề làm lu xi măng ở Trà Kha đã mai một,
nhất là khi đồ nhựa lên ngôi như hiện nay. Nhưng như tâm sự của ông Sơn Lực, dẫu
gì đó cũng là cái nghề thủ công đã một thời hưng thịnh ở Trà Kha; và trên thực
tế, chiếc lu xi măng đã đồng hành cùng đại bộ phận người dân Bạc Liêu - Cà Mau suốt
hai thập kỷ, làm sao có thể dễ quên đi! Ánh mắt người thợ già lấp lánh niềm tự
hào, niềm vui nhưng cũng thoáng chút u buồn khi nhớ về nghề cũ. Có lẽ ông Sơn Lực
không biết rằng qua ông và những đồng nghiệp của ông, văn hóa nghề lu xi măng sẽ
còn sống mãi: đó là đức tính cần cù, sáng tạo; là đạo đức nghề nghiệp với lối sống
chuẩn mực, không rượu chè; là tinh thần trách nhiệm để đưa đến người tiêu dùng
những chiếc lu bền, đẹp... Đó cũng là những nét đẹp truyền thống mãi mãi cần được
giữ gìn và phát huy trong xã hội ta hôm nay và mai sau. /.
Lý Kim Cương (Tháng 9/2014)
[1] Trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ, Trung đoàn 962 làm nhiệm vụ tiếp nhận vũ khí chiến lược từ đường vận tải
759 đưa hàng từ Bắc vào Nam bằng đường biển, sau đó vận chuyển cho các Khu, các
tỉnh thuộc Khu VII, VIII, IX.
[2] Đảng ủy - Chỉ huy Trung đoàn
962, Lịch sử truyền thống Trung đoàn 962
(sách lưu hành nội bộ), tr. 44.